Du lịch Quảng Ninh thực trạng và giải pháp - 13

3.1.3. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực

Muốn phát triển nguồn nhân lực du lịch, về quản lý nhà nước, không chỉ cần sự tham gia của một số Bộ, Ngành liên quan trực tiếp như Giáo dụ & Đào tạo, Lao động - Thương binh & Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch mà cần có sự quan tâm, phối hợp hành động của rất nhiều Bộ, Ngành, địa phương, cơ sở. Do đó, để giải bài toán phát triển nguồn nhân lực du lịch, ngoài sự cố gắng nỗ lực chủ quan của ngành Du lịch, Nhà nước cần quan tâm, thực hiện những giải pháp chung đồng bộ từ cơ chế, chính sách, đầu tư, tài chính đến chương trình, nội dung giảng dạy, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên...

Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực du lịch, ai cũng biết một điều giản dị rằng học cần phải đi đôi với hành, tức là yếu tố rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Các doanh nghiệp, người sử dụng lao động cần học sinh, sinh viên ra trường phải làm được việc ngay, có kỹ năng nghề nghiệp thực sự chứ không phải chỉ biết một mớ lý thuyết chung chung để rồi nhận người vào làm việc lại phải mất một thời gian để đào tạo lại. Nhưng với cơ chế, chính sách về giáo dục đào tạo như hiện nay thì cơ sở đào tạo khó có thể tạo ra được học sinh, sinh viên có kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Một số bất cập đã tồn tại từ nhiều năm nay là: Nhà nước quy định mức thu học phí cứng nhắc, không phù hợp, cơ sở đào tạo chỉ có thể cố gắng để đào tạo cho học sinh về lý thuyết là chủ yếu, không có kinh phí để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp; quy định chương trình khung bắt buộc cho các chương trình đào tạo chuyên nghiệp chỉ phù hợp để trang bị cho học sinh, sinh viên những kiến thức chung chung, tản mạn, không tập trung cho rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp; cơ chế xã hội hóa trong giáo dục đào tạo không phù hợp, hiệu quả thấp; hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập; chính sách, chế độ đối với cán bộ, giảng viên chưa khuyến khích, huy động được những người thực sự có trình độ khả năng nghề nghiệp, những chuyên gia lành nghề cống hiến cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.

Giải pháp liên kết giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với cơ sở đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu là rất cần thiết, quan trọng, không còn

là vấn đề mới, nhiều cơ sở trong ngành Du lịch đã làm từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, kết quả không được như mong muốn. Lý do chính của những hạn chế trong hoạt động giáo dục đào tạo chủ yếu xuất phát từ cơ chế, chính sách và hoạt động quản lý về giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cần có sự quan tâm giải quyết cụ thể, khoa học, đồng bộ, tích cực hơn từ Chính phủ, các Bộ, Ngành, địa phương, của cả hệ thống giáo dục đào tạo; có sự phối hợp thực sự chặt chẽ, nghiêm túc với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động mới hy vọng tìm được lời giải cho bài toán về nguồn nhân lực nói chung và nhân lực ngành Du lịch nói riêng.

3.1.4. Hỗ trợ xây dựng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch, bảo

tồn các khu di tích văn hoá và có những biện pháp bảo vệ môi trường du lịch

Tăng cường mối quan hệ phối hợp và hợp tác giữa các ngành để giải quyết, tháo gỡ những khó khăn mà bản thân ngành du lịch Quảng Ninh chưa thể một mình giải quyết được. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa phát triển du lịch, tranh thủ khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư hạ tầng du lịch và tôn tạo di tích văn hóa lịch sử truyền thống. Phát triển cả du lịch văn hóa và du lịch sinh thái theo định hướng chung của ngành du lịch, trong đó chú trọng đến các loại hình du lịch văn hóa hướng về cội nguồn và du lịch sinh thái biển đảo. Phát triển du lịch góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao vị thế của Yên Hưng đối với tỉnh Quảng Ninh và cả nước; cải tạo cảnh quan môi trường; nâng cao trình độ dân trí; thúc đẩy tiêu dùng và phát triển nhiều dịch vụ; trở thành “đầu tàu” lôi kéo nhiều ngành kinh tế khác phát triển.

Cùng với các cấp các ngành đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường du lịch. Trước mắt cần có kế hoạch nhanh chóng di chuyển các công trình và doanh nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi khu vực trung tâm các thành phố, thị xã như Hạ Long, Uông Bí. Đầu tư cải tạo và xây dựng các công trình xử lí chất thải cho tất cả các doanh nghiệp công nghiệp, bệnh viện, các khu dân cư trọng điểm trong thành phố.

Sớm nghiên cứu và ban hành các chính sách cụ thể về môi trường như chính sách thuế môi trường, các quy định xử phạt, bồi thường… đối với trường hợp làm giảm sút tài nguyên và ô nhiểm môi trường biển, ven biển và các hải đảo. Ban hành các quy định chặt chẽ bảo vệ môi trường biển đối với tàu thuyền nước ngoài ra vào hoạt động trên biển.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Có quy định chặt chẽ về thẩm định luận chứng các phương án bảo vệ môi trường trong quá trình xét duyệt các dự án phát triển, nhất là đối với các công trình có thể gây ô nhiễm lớn như hóa chất, cảng biển, vật liệu xây dựng.. hạn chế việc đưa các công trình gây ô nhiễm nặng và khó xử lí vào các khu vực có mức độ nhạy cảm môi trường cao và gần các trung tâm du lịch biển lớn như Hạ Long, Trà Cổ, Vân Đồn..

Đối với khu vực Hạ Long là khu vực nổi tiếng về cảnh quan thiên nhiên, nhưng đồng thời cũng là khu vực tập trung phát triển của nhiều nghành kinh tế quan trọng như cảng biển, công nghiệp khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng… Vì vậy cần có những chính sách và quy chế đặc biệt để bảo vệ tài nguyên, môi trường của khu vực, nhất là môi trường vịnh Hạ Long. Việc phát triển cảng Cái Lân và cảng chuyên dùng cho than, dầu, xi măng …phải được tính toán về quy mô và công nghệ phù hợp trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển của công nghiệp, du lịch và dịch vụ ở dải ven biển Hạ Long – Bãi Cháy cũng như toàn khu vực.

Du lịch Quảng Ninh thực trạng và giải pháp - 13

Nghiên cứu thiết lập một hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên và ven biển với các kiểu loại phù hợp nhăm bảo vệ và phát triển hệ sinh thái đặc thù và đa dạng sinh học biển, ven biển và hải đảo. Trước hết xem xét xây dựng vườn quốc gia Bái Tử Long với những quy định chặt chẽ về bảo vệ và cớ chế quản lí thích hợp, trên cơ sở gắn kết chặt chẽ các hoạt động bảo vệ các mục tiêu kinh tế - xã hội.

Chú trọng công tác phòng chống xói lở bờ biển nhất là các đoạn biển xung yếu, đảm bảo các công trình kinh tế, quốc phòng, cũng như cho sản xuất và đời sống của cư dân ven biển.

Đẩy mạnh và phát triển rộng rãi phong trào giáo dục môi trường trong toàn thể nhân dân, kể cả thành thị và nông thôn. Các cấp chính quyền cần quan tâm tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân có nhận thức đúng đắn về môi trường biển, khuyến khích các doanh nghiệp đóng thuế và mua bảo hiểm môi trường.

3.1.5. Tổ chức các cuộc hội thảo lớn, các cuộc thi mang tầm vóc quốc tế

nhằm quảng bá, giới thiệu các danh lam thắng cảnh trên toàn lãnh thổ Việt Nam

nói chung và trên toàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng

Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Sở Du lịch Quảng Ninh cần phải phối hợp mạnh mẽ hơn nữa với Tổng Cục du lịch, Bộ Văn hóa Thông tin, Ủy ban Thể dục Thể thao Quốc gia, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam cùng các Bộ, Ngành khác tổ chức các hoạt động mang tính chất toàn ngành, toàn quốc gia. Như tổ chức thực hiện du lịch MICE tại Hạ Long. Tích cực hưởng ứng “Chương trình hành động quốc gia về du lịch”. Thực hiện chiến dịch quảng bá mạnh mẽ cho Chương trình khuyến mại của Ngành Du lịch Việt Nam.

Thực hiện đồng bộ một chiến dịch xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ cho Chương trình khuyến mại của ngành Du lịch ở cả trong và ngoài nước, bao gồm cả ở cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp, nhằm thu hút một cách mạnh mẽ khách du lịch vào Việt Nam và thúc đẩy du lịch nội địa phát triển. Các hoạt động cụ thể bao gồm:

Khởi động chiến dịch quảng bá mạnh mẽ về Du lịch của tỉnh trên mạng internet. Thiết kế trang web chính thức để giới thiệu Chương trình khuyến mại của ngành Du lịch tỉnh. Trang web này sẽ công bố đường link tới các trang web của các doanh nghiệp lữ hành tham gia vào Chương trình khuyến mại này. Củng cố, đào tạo cấp tốc lực lượng, thu thập, cập nhật thông tin ở các doanh nghiệp và tổ chức thiết kế hệ thống cung cấp thông tin lên mạng internet. Đây là giải pháp đột phá quan trọng trong điều kiện hạn chế về kinh phí quảng bá.

Tổ chức quảng bá du lịch Quảng Ninh trên các phương tiện thông tin đại chúng của các quốc gia là thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam, như trên kênh truyền hình Châu Âu, Châu Mỹ, Ôtxtrâylia, Đông Bắc Á, Đông Nam Á. Trước tiên tập trung giới thiệu chi tiết chương trình khuyến mại, giảm giá của Du lịch Quảng Ninh.

Tổ chức quảng bá về các điểm du lịch mới ở Quảng Ninh trên truyền hình trung ương và địa phương trong nước nhằm thúc đẩy thu hút khách du lịch nội địa. Tổ chức FAMTRIP cho các doanh nghiệp lữ hành và các nhà báo trong nước chuyên viết về du lịch tới các điểm du lịch của tỉnh, đặc biệt là các điểm du lịch mới.

Tổ chức tốt các sự kiện du lịch trong nước nhằm thu hút khách du lịch. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương tổ chức tốt các sự kiện văn hóa, du lịch, trong đó chú trọng các sự kiện bao gồm: Diễn đàn Du lịch ASEAN và Hội chợ TRAVEX tại Hà Nội. Nhân tổ chức Diễn đàn Du lịch ATF và Hội chợ TRAVEX, triển khai rầm rộ việc giới thiệu quảng bá Chương trình khuyến mại toàn quốc của Ngành Du lịchQuảng Ninh. Phân phát tài liệu, ấn phẩm về Chương trình này cho các buyer, seller, các nhà báo đến tham dự.

Để thu hút các dự án đầu tư du lịch nhằm nâng cao chất lượng phục vụ du lịch, cần thiết phải xây dựng cho được nội dung các chương trình xúc tiến đầu tư thương mại du lịch của tỉnh trong thời gian đến. Chương trình hỗ trợ xúc tiến phát triển các ngành dịch vụ tập trung vào việc hỗ trợ xây dựng, phát triển một số ngành, lĩnh vực; chương trình hỗ trợ nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Tổ chức các hoạt động kêu gọi đầu tư tập trung theo ngành, nhất là đối với ngành dịch vụ du lịch. Chương trình hội nhập kinh tế quốc tế: Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo trong nước, quốc tế nhằm giới thiệu các chính sách, pháp luật; quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư mới của Quảng Ninh. Qua đó đối thoại trực tiếp với các nhà đầu tư để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhà đầu tư, đánh giá tình hình đầu tư được chính xác, đề ra các biện pháp, giải pháp kịp thời làm lành mạnh môi trường đầu tư. Công tác truyền thông, thông tin, quảng bá cần xây dựng cổng thông tin đầu tư thương mại, du lịch bằng hai thứ tiếng Anh – Việt, qua đó cung cấp thông tin cập nhật về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, cơ hội đầu tư tại Quảng Ninh cho các nhà đầu tư; đồng thời tạo mối quan hệ, liên kết thông tin chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác.

3.1.6. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính

Cải cách hành chính được xác định là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Trong lĩnh vực du lịch cũng vậy.

Các cơ quan nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho ngành du lịch phát triển bền vững. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với những doanh nghiệp mới, mong muốn bước vào ngành để kinh doanh, bước đầu tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho

các doanh nghiệp. Không được đưa ra các chính sách, các thủ tục hành chính nhằm nhiễu khách, gây bất lợi cho các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực du lịch.

Đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, thông thoáng tạo thuận lợi cho việc di chuyển, đi lại của khách du lịch. Qua đó mới có thể thu hút được lực lượng đông đảo khách du lịch tới Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng.

Ngành du lịch của tỉnh cần phối hợp với các cơ quan hữu quan (Cục quản lý Xuất nhập cảnh, Tổng cục Hải quan) xây dựng đề án “Đơn giản hóa thủ tục hành chính”, nghiên cứu khả năng cấp visa hoặc miễn visa song phương và đơn phương tại cửa khẩu.

Nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc và có kết quả chính sách đơn giản hóa thủ tục hành, tổ công tác chuyên trách CCTTHC của Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc và tổng hợp tình hình thực hiện Đề án 30 tại các Bộ, địa phương và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xử lý những trường hợp chậm trễ, gây cản trở, thiếu hợp tác, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện yêu cầu, hướng dẫn của Tổ và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đồng thời đăng tải những trường hợp này trên trang tin điện tử của Tổ công tác và Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

3.2. Về phía các doanh nghiệp

Hình ảnh của các doanh nghiệp du lịch là bức tranh tổng thể của doanh nghiệp, tạo nên ấn tượng đối với khách hàng ngay từ lần đầu tiếp xúc. Vì vậy, những nhà quản trị nhìn xa trông rộng bao giờ cũng quan tâm xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp bắt đầu từ những chi tiết nhỏ nhất như: trang phục nhân viên, nội – ngoại thất văn phòng, phong cách ứng xử, giao tiếp…Cần nhận thấy rằng, bí quyết thành công hoàn toàn không phụ thuộc vào số lượng những quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà vấn đề là ở chỗ biết phát triển đúng hướng các mối quan hệ xã hội. Dù cho phản ứng của dư luận xã hội thế nào đi nữa thì doanh nghiệp phải luôn đảm bảo đúng định hướng phục vụ và làm vừa lòng khách hàng.

3.2.1. Không ngừng đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phục vụ phù hợp với

nhu cầu của du khách

Nâng cao chất lượng phục vụ là một yêu cầu cấp thiết cũng như lâu dài của du lịch Quảng Ninh. Các cơ sở lưu trú du lịch phải cam kết đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp đúng hạng sao đã được quy định. Đặc biệt cần chú ý chuyên nghiệp hóa đội ngũ nhân viên phục vụ. Nhiều cơ sở du lịch thời gian qua thường xảy ra trộm cắp, làm phiền hà du khách. Do vậy tự mỗi cơ sở phải có biện pháp tăng cường công tác an ninh trật tự, phòng chống trộm cắp tài sản của khách tại cơ sở của mình.

Thay đổi vị trí để hiểu nhu cầu cơ bản của từng đối tượng cụ thể cũng là một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ phù hợp với nhu cầu của du khách. Nhân viên phục vụ khách hàng có thể suy nghĩ vấn đề trên góc độ của khách hàng khi đang vạch ra kế hoạch làm việc, kế hoạch phục vụ hoặc khi phát hiện ra yêu cầu, nhu cầu của khách hàng. Phương pháp cụ thể có thể thông qua thay đổi vị trí của nhân viên tiến hành suy nghĩ đổi vị trí, ví dụ như nhân viên phục vụ khách hàng thử làm khách hàng bán lẻ một hôm. Giám đốc thị trường làm nhân viên phục vụ khách hàng một hôm, chủ nhiệm trung tâm khách hàng làm giám đốc thị trường một hôm v.v…

Thay đổi vị trí trên yêu cầu của doanh nghiệp đối với khách hàng. Cùng với việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp còn cần chú ý đến yêu cầu của họ đối với khách hàng đã hợp lí hay chưa, cần làm việc của doanh nghiệp đã được làm đến nơi đến chốn hay chưa, ngoại việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của khách hàng, doanh nghiệp có cung cấp giá trị bổ sung khác hay không.

Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, cung ứng nguồn hàng và quản lý các chính sách v.v… doanh nghiệp đều phải tiến hành phân loại khách hàng và tiêu chuẩn đánh giá tương ứng, đưa ra một loạt yêu cầu cho khách hàng, ví dụ tuân thủ các yêu cầu như chính sách tiêu thụ của doanh nghiệp, trình độ kinh doanh và lượng tiêu thụ nhất định. Đối với những yêu cầu này, khách hàng ít nhiều đều không thể hoàn hảo. Nếu như quá trình đi phỏng vấn, nhân viên phục vụ khách hàng có thể cung cấp dịch vụ mang tính cá nhân, giúp đỡ khách hàng chỉnh sửa lại quầy hàng, cung cấp

tình hình thị trường và kĩ năng tiêu thụ, giúp đỡ tiền bạc v.v… thì mức độ hài lòng của khách hàng nhất định sẽ được nâng cao, khách hàng nhất định sẽ phối hợp nhiệt tình với các yêu cầu mà chúng ta đưa ra, từ đó hai bên đáp ứng nhu cầu lẫn nhau.

Thông qua suy nghĩ trao đổi vị trí để kiểm nghiệm chất lượng dịch vụ khách hàng và hiệu suất của doanh nghiệp đã đạt đến yêu cầu nhất định hay chưa. Nhân viên phục vụ khách hàng thông thường đều có thể thăm hỏi khách hàng theo yêu cầu, chờ đợi khách hàng một cách lịch sự v.v…, làm việc chăm chỉ theo tiêu chuẩn phục vụ khách hàng của doanh nghiệp. Dù vậy doanh nghiệp vẫn sẽ thường xuyên nhận được sự chỉ trích của khách hàng, mức độ hài lòng của khách hàng khồn cao. Nguyên nhân chính là do tuy doanh nghiệp đã làm rất nhiều việc, nhưng vẫn chưa làm đến nơi đến chốn, có thể nhanh, mà không tốt, cũng có thể sự cố gắng sai phương hướng. Vì vậy, doanh nghiệp phải thông qua trao đổi vị trí để suy nghĩ tìm hiểu giá trị mong muốn phục vụ của khách hàng khác nhau trong những tình huống khác nhau, cố gắng cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, làm cho trình độ phục vụ của doanh nghiệp đáp ứng mong muốn thỏa đáng của khách hàng và mong muốn phục vụ lý tưởng, từ đó bảo đảm sự hài lòng của khách hàng

Việc nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động phục vụ du lịch là vấn đề rất đáng quan tâm vì nó sẽ quyết định chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm du lịch và hiệu quả của hoạt động du lịch. Trình độ quản lí, trình độ nghiệp vụ, tinh thần phục vụ, khả năng giao tiếp và ngoại ngữ là những điều cần được thường xuyên bồi dưỡng cho mỗi cán bộ, nhân viên trong nghành du lịch để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch ngày càng nâng cao trong thời gian tới ở Quảng Ninh.

3.2.2. Thực hiện chiến lược thu hút khách du lịch thông qua việc đa dạng

hoá các loại hình dịch vụ, đưa ra các chương trình đặc biệt nhằm thu hút khách

du lịch

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên cơ sở khai thác được tiềm năng giàu có, phong phú của tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, tổ chức nghiên cứu để cho ra đời những hoạt động, loại hình du lịch đa đạng và độc đáo (như hoạt động du lịch mạo hiểm, du lịch chợ đêm…vô cùng hấp dẫn và thú vị).

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí