Vì Sao Sách Gv Thường Hướng Dẫn Tổ Chức Cho Hs Thực Hành Kể Chuyện Theo Nhóm Nhỏ (2 Em) Chứ Không Theo Nhóm Lớn (4, 5 Em)?

dụ, để HS kể tự tin hơn câu chuyện Lí Tự Trọng, sau khi kể lần 1, kết hợp giải nghĩa từ, GV cần viết lên bảng các từ: mít tinh, luật sư, chưa đến tuổi thành niên, cùng các từ chỉ nhân vật: tên đội Tây, mật thám Lơ-găng.

- Nên kể thêm một lần nữa đối với các lớp trình độ yếu. (1 HS giỏi có thể kể thay GV

để các bạn HS kém có thêm cơ hội ghi nhớ câu chuyện).

2.3. Tổ chức giờ học sao cho nhiều HS được kể, được nói - được chuẩn bị trước khi thi kể trước lớp bằng hình thức kể chuyện trong nhóm, trao đổi về nhân vật, về nội dung, ý nghĩa câu chuyện.

Để dành thời gian cho nhiều HS được kể, sau lời kể của mỗi em, GV cần nhận xét nhanh, hoặc cho HS khác nhận xét nhanh lời kể của bạn; tránh nhận xét tỉ mỉ làm mất thời gian hoặc mời nhiều HS nhận xét.

2.4. GV cần tế nhị khi hướng dẫn HS kể chuyện:

- Nên động viên, khuyến khích để các em kể tự nhiên, hồn nhiên, như là đang kể cho anh, chị, em hay bạn bè ở nhà.

- Nếu có em đang kể bỗng lúng túng vì quên chuyện, GV có thể nhắc một cách nhẹ nhàng để em đó nhớ lại câu chuyện. Nếu có em kể thiếu chính xác, cũng không nên ngắt lời thô bạo. Chỉ nhận xét khi các em đã kể xong.

- Chú trọng nhận xét lời kể của HS theo hướng khích lệ để các em luôn cố gắng.

2.5. Điểm cần lưu ý nữa là GV cần kể chuyện và hướng dẫn HS kể lại câu chuyện theo đúng yêu cầu của bài tập trong SGK: nếu SGK gợi cho HS nhớ lại câu chuyện bằng tranh minh hoạ thì GV không nên tăng thêm số tranh, giảm bớt số tranh hoặc thay đổi nội dung tranh trong SGK. Làm như thế là thực hiện sai chủ đích của kiểu bài tập.


3. Vì sao sách GV thường hướng dẫn tổ chức cho HS thực hành kể chuyện theo nhóm nhỏ (2 em) chứ không theo nhóm lớn (4, 5 em)?

Để tạo điều kiện cho nhiều HS được luyện kể cho bạn trước khi chính thức thi KC trước lớp, SGV chọn hình thức KC theo cặp. Từng cặp HS quay mặt vào nhau, kể cho nhau nghe câu chuyện của mình, cùng bạn trao đổi về nội dung câu chuyện. Thời gian dành cho hoạt động nhóm khoảng 6, 7 phút. Như vậy, mỗi em sẽ được luyện kể khoảng 3 phút. Thực hành KC theo nhóm 2 em so với nhóm 4, 5 em tiện lợi hơn, tiết kiệm thời gian hơn và có hiệu quả cao hơn, vì:

- KC theo nhóm 2, HS đỡ mất thời gian di chuyển chỗ ngồi (các lớp học hiện nay thường bố trí mỗi bàn 2 em), chỉ cần 2 em quay mặt vào nhau là có thể kể cho nhau nghe.

- KC theo nhóm 2, chắc chắn HS nào cũng được kể. Nếu KC theo nhóm lớn (3, 4 em), thời gian tối đa dành cho hoạt động nhóm không thể quá 10, 12 phút. Vì khó áng chừng được thời gian, sẽ có em kể quá dài, lấy mất thời gian kể của bạn khác; đồng thời cũng có những em lười chuẩn bị bài sẽ trốn được việc kể.

- KC theo nhóm 2, hoạt động nhóm chiếm ít thời gian hơn nên thời gian dành cho hoạt động thi KC trước lớp sẽ nhiều hơn, số HS tham dự cuộc thi trước lớp cũng nhiều hơn, sẽ làm tăng không khí sôi nổi của giờ học.

Hoạt động 2 :

Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy kiểu bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc

Nhiệm vụ

1. Nghiên cứu tài liệu.

2. Nghe giảng viên thuyết trình, gợi vấn đề.

3. Suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, trả lời các câu hỏi sau:

3.1. Kiểu bài tập KC đã nghe đã đọc có đặc điểm gì? Đó có phải là kiểu bài tập lần đầu xuất hiện trong bộ SGK Tiếng Việt tiểu học không? Kiểu bài này được đưa vào phân môn Kể chuyện với mục đích gì?

3.2. Khi kể những câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ học, HS có được thuộc lòng câu chuyện không ?

3.3. HS thường khó tìm được các câu chuyện có độ dài vừa phải để kể trong khoảng 4, 5 phút. Có nên yêu cầu các em kể tóm tắt câu chuyện không ?

3.4. GV có cần yêu cầu HS chú ý tìm truyện Việt Nam không? Có cho phép HS kể truyện tranh không?

3.5. Trong giờ kể chuyện, HS có thể kể những câu chuyện mà GV chưa đọc. Trong trường hợp đó, GV làm cách nào để nhận xét, đánh giá HS? Để khắc phục tình trạng này, có nên yêu cầu mỗi tổ hoặc cả lớp cùng đọc một truyện không ?

3.6. Để dạy kiểu bài KC đã nghe, đã đọc thành công, GV cần chú ý những gì?

* Nêu thêm câu hỏi của anh, chị (nếu có) để giảng viên cùng cả lớp giải đáp.


Thông tin phản hồi (cho hoạt động 2)

1. Về đặc điểm của kiểu bài tập KC đã nghe đã đọc

Khác với bài tập kiểu 1 - HS lắng nghe thầy cô kể một câu chuyện trên lớp, sau đó ghi nhớ câu chuyện và kể lại, với kiểu bài tập 2 (KC đã nghe, đã đọc), HS phải tự sưu tầm các câu chuyện trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể) để đến lớp kể lại cho bạn bè và thầy cô nghe. Giờ KC lúc này thực sự trở thành “sân chơi” của HS. GV không phải kể cho HS nghe mà chỉ nghe HS kể chuyện, hướng dẫn các em trao đổi vắn tắt về cách KC và ý nghĩa câu chuyện. Tuy vậy không có nghĩa là trong những giờ học này GV không đóng vai trò gì, không tác động gì đến kết quả “cuộc chơi” của HS. Ngược lại, giờ học không thể thành công nếu thiếu tác động của GV

- GV giúp đỡ HS trong quá trình chuẩn bị, tổ chức, khích lệ HS kể chuyện trong nhóm và trước lớp, tổ chức đánh giá kết quả kể chuyện của HS.

Trong chương trình cũ, kiểu bài này nằm trong phân môn TLV, nay được chuyển sang phân môn KC để thực sự rèn kĩ năng nói cho HS. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng nói, kiểu bài này còn có mục đích kích thích HS ham đọc sách, mở rộng cánh cửa nhà trường, làm cho đời sống văn học trong nhà trường gắn bó với đời sống văn học ngoài xã hội.


2. Khi kể những câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ học, HS có được thuộc lòng câu chuyện không ?

Nếu quan niệm giờ KC đã nghe, đã đọc có thể thành công mà HS không cần chuẩn bị, không cần thuộc truyện thì rất sai lầm. Dĩ nhiên là giờ KC đã nghe, đã đọc không rèn kĩ năng học thuộc lòng. Tuy vậy, khi chuẩn bị cho giờ học, HS đã phải đọc kĩ truyện, nhờ đó mà nhớ chuyện, thuộc truyện. Trẻ em vốn có trí nhớ tốt hơn người lớn rất nhiều nên nếu có thuộc truyện thì cũng là điều bình thường. Ngay thầy, cô muốn kể thật trôi chảy, hấp dẫn trong giờ KC cũng phải thuộc, phải hiểu truyện mới kể được. Vì vậy không nên và cũng không thể cấm HS thuộc lòng câu chuyện các em sẽ kể trên lớp.

Nếu có HS do đọc kĩ mà thuộc truyện, kể sinh động, biểu cảm như sống với câu chuyện thì GV nên đặc biệt khen ngợi HS đó. Nhờ thuộc lòng như vậy, ngôn ngữ văn học (từ ngữ, mẫu câu, nhạc điệu, hình ảnh văn học...) sẽ thấm vào trẻ, dần dần chuyển hoá, đến lúc nào đó, trẻ sẽ biết dùng lại chúng một cách tự nhiên. Khi trẻ kể được một cách

sống động nghĩa là các em đã sáng tạo, đã đưa được cảm xúc riêng của mình vào trong câu chuyện, làm cho văn bản truyện trở thành câu chuyện của riêng mình. Chỉ trong trường hợp HS kể như đọc văn bản, vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc văn bản, GV mới nhận xét kể như thế chưa đạt yêu cầu vì đó là cố gắng đọc thuộc, không phải là kể.


3. HS thường khó tìm được các câu chuyện có độ dài vừa phải để kể trong khoảng 4, 5 phút. Có nên yêu cầu các em kể tóm tắt câu chuyện không?

Yêu cầu HS tóm tắt một câu chuyện dài cho ngắn lại để kể trong khoảng 4, 5 phút là yêu cầu quá cao với trẻ em. Thêm nữa, cũng cần lưu ý rằng kể một câu chuyện quá vắn tắt nhiều khi sẽ làm mất đi những chi tiết thú vị, những hình ảnh đẹp hay những từ ngữ gợi cảm, do đó làm giảm đáng kể vẻ đẹp của câu chuyện đó.

Để tạo điều kiện cho trẻ KC dễ dàng, GV có thể cho các em kể một, hai đoạn thật hay trong truyện (chọn đoạn có sự kiện, nhân vật, ý nghĩa, không phải chỉ có mấy câu vào chuyện). Các em sẽ kể tiếp câu chuyện cho những bạn còn tò mò muốn nghe vào giờ ra chơi hoặc cho các bạn mượn truyện.

HS có thể tìm truyện trong cuốn Truyện đọc lớp 5 (Nhà xuất bản Giáo dục, 2006). Sách đã chọn giới thiệu 70 truyện đọc ngắn, trong đó có những truyện vốn có độ dài tương đối lớn đã được tóm tắt thành những trích đoạn chừng 1, 2 hoặc 3 trang và phân đoạn từng truyện để giúp HS dễ dàng chọn được truyện hoặc đoạn truyện thích hợp với thời gian học tập trên lớp.


4. GV có cần yêu cầu HS chú ý tìm truyện Việt Nam không? Có cho phép HS kể truyện tranh không?

Yêu cầu tìm được một câu chuyện đúng với chủ điểm để kể trên lớp đã là một yêu cầu tương đối khó. Vì vậy, GV không nên làm khó thêm cho HS khi đòi hỏi các em phải chú ý tìm truyện kể của Việt Nam. HS có thể tìm đọc và kể những câu chuyện của tác giả Việt Nam hay nước ngoài đều được, miễn là những truyện ấy có nội dung lành mạnh, phù hợp với chủ điểm và được các em yêu thích.

Còn về truyện tranh thì trong trường hợp cụ thể, nếu HS chỉ tìm được truyện tranh phù hợp với chủ điểm, GV có thể cho các em KC theo nội dung truyện tranh đó vì dù sao trong quá trình chuyển nội dung truyện tranh thành lời kể, HS cũng được rèn kĩ năng nói.

Tuy nhiên, bên cạnh mục đích chính là rèn kĩ năng nói, kiểu bài KC đã nghe, đã đọc còn nhằm thúc đẩy hoạt động đọc ở HS. Vì vậy, GV không nên khuyến khích HS tìm đọc truyện tranh mà cần hướng các em tìm đọc truyện “bằng chữ” trong sách báo, đặc biệt là những truyện nổi tiếng của Việt Nam và thế giới. Nhờ đọc sách thường xuyên, HS sẽ xây dựng được thói quen đọc sách, nâng cao kĩ năng đọc, làm tiền đề hình thành văn hoá đọc ở mỗi em.


5. Trong giờ kể chuyện, HS có thể kể những câu chuyện mà GV chưa đọc. Trong trường hợp đó, GV làm cách nào để nhận xét, đánh giá HS? Để khắc phục tình trạng này, có nên yêu cầu mỗi tổ hoặc cả lớp cùng đọc một truyện không?

Trong thực tế, hoàn toàn có thể xảy ra tình huống GV chưa đọc những câu chuyện HS kể. Nhưng như thế không có nghĩa là GV không thể nhận xét, đánh giá HS. Dĩ nhiên, nếu các em kể sai một vài chi tiết nhỏ trong truyện, GV có thể không biết. Nhưng điều này không quan trọng. Trong trường hợp câu chuyện các em kể có những sai khác lớn, vi phạm lô gíc của câu chuyện, thì GV và thậm chí HS trong lớp cũng có thể phát hiện ra mâu thuẫn để hỏi lại, góp ý cho người kể. Điều quan trọng nhất trong đánh giá HS là đánh giá sự phù hợp của câu chuyện HS kể với chủ điểm và khả năng diễn đạt của HS. Điều này GV hoàn toàn thực hiện được mà không nhất thiết phải biết trước nội dung câu chuyện.

Kiểu bài KC đã nghe, đã đọc ngoài giờ học là một hình thức gắn kết chương trình học tập của nhà trường với đời sống văn học. Chính vì vậy, GV nên khuyến khích HS đọc được càng nhiều truyện phù hợp với lứa tuổi các em càng tốt. Không nên vì sợ HS kể những câu chuyện GV chưa biết mà hạn chế việc đọc truyện của các em. Làm như thế sẽ mất tác dụng kích thích HS tìm đọc sách của kiểu bài tập KC này.

Để khắc phục tình trạng GV không biết những câu chuyện HS kể, cách tốt nhất là GV cần thường xuyên đọc truyện thiếu nhi, đọc sách báo để nâng cao hiểu biết, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của giờ KC đã nghe, đã đọc.


6. Để dạy kiểu bài KC đã nghe, đã đọc thành công, GV cần chú ý những gì?

a) GV cần giúp mỗi HS đến với giờ học đều có sẵn điều muốn kể, có nhu cầu kể cho thầy, cô và các bạn nghe câu chuyện của mình. Muốn vậy, GV cần yêu cầu HS đọc trước

nội dung của bài tập KC tuần sau trong SGK để chuẩn bị cho giờ kể chuyện; hướng dẫn, giúp đỡ để HS ở mọi trình độ đều tìm được những câu chuyện phù hợp với đề bài; nhắc HS đọc kĩ để nhớ chuyện, khuyến khích những em có khả năng thuộc câu chuyện. Đối với HS một số vùng dân tộc đặc biệt khó khăn, GV có thể cho các em chuẩn bị kể lại những câu chuyện đã học (ngoài phân môn Kể chuyện) trong SGK Tiếng Việt.

b) Tổ chức giờ học sao cho nhiều HS được kể chuyện, được trao đổi bằng hình thức: kể chuyện trong nhóm, thi kể chuyện trước lớp; đối thoại, trao đổi về nhân vật, về nội dung, ý nghĩa câu chuyện.

c) Để giờ học thực sự là “sân chơi” của trẻ em, GV cần dành nhiều thời gian cho trẻ em tự thể hiện mình, không làm lãng phí thời gian với những việc như sau:

- Không yêu cầu HS kể mẫu vì đây là kiểu bài HS đã làm quen từ lớp 4.

- Không yêu cầu HS nhận xét, bình luận về cái hay, cái đẹp của câu chuyện bạn tìm

được (vì đó không phải là mục đích của giờ học này).

- Không mời nhiều HS nhận xét sau lời kể của mỗi bạn hoặc nêu những nhận xét quá tỉ mỉ, chi tiết về từ và câu - vì trẻ em (và cả người lớn cũng vậy) chỉ có khả năng ghi nhớ những lỗi rất gây ấn tượng về từ, câu; nếu có chủ định phát hiện lỗi của người kể, khi tìm ra một lỗi nào đó, trí não phải ghi nhớ, lập tức, sự theo dõi tiếp tình tiết câu chuyện sẽ bị đứt đoạn.

Đặc biệt, tránh tình trạng GV để vài ba HS thi kể xong mới mời cả lớp nhận xét lần lượt lời kể của từng bạn. Trẻ em sẽ bị lẫn lộn, không thể ghi nhớ chính xác những sai phạm trong lời kể của mỗi bạn nếu không kết hợp ghi chép khi nghe. Nhưng yêu cầu HS nghe - ghi không phải mục đích của giờ học này.

Hoạt động 3 : Thực hành soạn giáo án bài kể chuyện đã nghe,

đã đọc - dạy thử


Nhiệm vụ

Nhiệm vụ 1 : Thực hành soạn giáo án một tiết KC đã nghe, đã đọc, trình bày giáo án, làm rõ quy trình và phương pháp dạy kiểu bài này. Các bước thực hiện:

- Chọn bài dạy.

- Thiết kế giáo án theo hướng đổi mới PPDH và đúng đặc trưng của tiết KC kiểu 2.

- Trao đổi với đồng nghiệp để tranh thủ ý kiến góp ý.

- Sửa chữa, hoàn thiện giáo án.


Nhiệm vụ 2 : Dạy thử trên lớp.

- HV thực hành dạy thử trên lớp, rút kinh nghiệm.

- Cùng đồng nghiệp trao đổi ý kiến, rút kinh nghiệm.

- Điều chỉnh giáo án.


Thông tin phản hồi (cho hoạt động 3)

Quy trình dạy kiểu bài tập KC kiểu 2:

* GV hướng dẫn HS tìm câu chuyện theo đề tài từ cuối tiết KC tuần trước.

- Kiểm tra bài cũ (HS kể lại 1, 2 đoạn của câu chuyện đã nghe thầy cô kể trong tiết học trước, trả lời câu hỏi về nội dung chuyện).

- GV nêu yêu cầu KC của tiết học.

- HS nêu tên câu chuyện phù hợp với yêu cầu của tiết học (các em đã tìm được).

- HS tập kể chuyện trong nhóm.

- HS thi kể chuyện trước lớp; HS trao đổi, đối thoại về nội dung, nhân vật, ý nghĩa câu chuyện.

- Củng cố, dặn dò


Hoạt động 4 :

Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy kiểu bài

Kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia

Nhiệm vụ

1. Nghiên cứu tài liệu.

2. Xem băng hình trích đoạn tiết KC đã chứng kiến hoặc tham gia (nếu có)

3. Nghe giảng viên thuyết trình, gợi vấn đề.

4. Suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, trả lời các câu hỏi sau:

4.1. Kiểu bài tập KC được chứng kiến hoặc tham gia có đặc điểm gì? Đó có phải là kiểu bài mới xuất hiện trong bộ SGK Tiếng Việt tiểu học không? Vì sao kiểu bài này được đưa vào phân môn Kể chuyện?

4.2. So sánh về mức độ khó của ba kiểu bài tập KC ở lớp 5.

4.3. Để dạy thành công bài KC đã chứng kiến, tham gia, GV cần chú ý những gì?

4.4. Xem băng hình trích đoạn tiết KC đã chứng kiến hoặc tham gia về ước mơ đẹp của em hoặc bạn bè, người thân, anh, chị có nhận xét gì về quy trình dạy kiểu bài này, về cách GV tổ chức hoạt động của HS, vai trò của GV trong giờ học? (Câu hỏi với lớp HV có xem băng hình).

* Nêu thêm câu hỏi của anh, chị (nếu có) để giảng viên cùng cả lớp giải đáp.


Thông tin phản hồi (cho hoạt động 4)

1. Về đặc điểm của kiểu bài tập “KC đã chứng kiến hoặc tham gia”


Khác với kiểu bài 2 (KC đã nghe, đã đọc) - HS phải tự sưu tầm các câu chuyện trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể) để kể lại, với kiểu bài 3 (KC được chứng kiến hoặc tham gia) HS phải kể những chuyện người thật, việc thật; tự tạo ra những câu chuyện từ những con người, sự việc có thật có trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết, đã thấy, có thể là thấy trên sân khấu, ti vi..., cũng có khi chính các em là nhân vật trong câu chuyện.

Giờ KC lúc này có ý nghĩa tạo “sân chơi” cho HS. GV không kể cho HS nghe mà nghe HS kể chuyện, hướng dẫn các em trao đổi về cách KC, về nội dung ý nghĩa câu chuyện.

Cũng như kiểu bài KC đã nghe, đã đọc, kiểu bài này vốn nằm trong phân môn TLV của SGK cũ, nay được chuyển sang phân môn KC để thực sự rèn kĩ năng nói cho HS. Bên cạnh mục đích chung là rèn luyện kĩ năng nói cho HS, bài KC đã chứng kiến, tham gia còn có mục đích rèn cho HS thói quen quan sát, ghi nhớ.


2. So sánh về mức độ khó của 3 kiểu bài tập KC ở lớp 5



Kể lại câu chuyện


KC đã nghe, đã đọc


KC đã chứng kiến, tham

vừa nghe thầy, cô kể

(kiểu 2)

gia (kiểu 2)

trên lớp



(kiểu 1)



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 386 trang tài liệu này.

Dạy học lớp 5 theo chương trình Tiểu học mới - 8

Xem tất cả 386 trang.

Ngày đăng: 04/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí