thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong những năm 2005 2010, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được cấp ủy các cấp thường xuyên quan tâm, đổi mới theo hướng sát
hợp với điều kiện cụ thể của từng đối tượng, địa phương; luôn củng cố,
kiện toàn, sắp xếp TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn đảm bảo đồng bộ, thống
nhất với các tổ chức của HTCT ở cơ sở; thực hiện tốt công tác xây dựng
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nội dung, phương thức hoạt động của các cấp ủy, TCCSĐ ở cơ sở tiếp tục được đổi mới; tăng
cường sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân, phát huy trách nhiệm xây dựng
Đảng của quần chúng. Bên cạnh đó, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn còn hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở một số địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức… Đây chính
là cơ sở thực tiễn quan trọng để Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa làm căn cứ trong
lãnh đạo xây dựng TCCSĐ ở xã, phường, trị trấn những năm tiếp theo.
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ, Đảng Viên Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Đổi Mới Phương Thức Lãnh Đạo Của Tổ Chức Cơ Sở Đảng Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Phát Huy Vai Trò Các Tổ Chức Chính Trị Xã Hội Tham Gia Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng
- Chủ Trương Của Đảng Bộ Tỉnh Thanh Hóa Về Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Chỉ Đạo Công Tác Giáo Dục Chính Trị, Tư Tưởng Cho Cán Bộ, Đảng
- Chỉ Đạo Củng Cố, Kiện Toàn Tổ Chức Cơ Sở Đảng , Xây Dựng Cấp Ủy Ở Xã, Phường, Thị Trấn
Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.
Chương 3
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA VỀ XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN (2010 2015)
3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn
3.1.1. Những yếu tố mới tác động đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
3.1.1.1. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước
Tình hình thế
giới:
Đại hội XI (01/2011) của Đảng nhận định tình
hình thế giới trong những năm tới: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường” [62, tr. 182]. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ và khủng
bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, điện tử viễn thông, sinh học, môi trường còn tiếp tục gia tăng. Cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển…
Xu hướng hình thành cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. “Kinh tế thế giới mặc dù có dấu
hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn”
[62, tr. 183]; chủ
nghĩa
bảo hộ
phát triển dưới nhiều hình thức; cơ
cấu
lại thể
chế, các ngành, các lĩnh vực kinh tế
diễn ra mạnh mẽ ở
nhiều
nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi. Cạnh tranh kinh tế thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn và nguồn nhân lực chất lượng cao… giữa
các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề
toàn cầu như
an ninh tài
chính, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh… sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh,
dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển; đấu tranh giai cấp và dân
tộc vẫn diễn biến phức tạp. Các thế
lực phản động quốc tế
lợi dụng
dân chủ, nhân quyền can thiệp vào các nước, thực hiện “diễn biến hóa
bình”, kết hợp những
khó khăn, yếu kém bên trong để
gây bạo loạn lật
đổ. Những tác động đặt ra những yêu cầu mới trong xây dựng TCCSĐ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên cả về trình độ, năng lực chuyên môn, cả về bản lĩnh chính trị, đạo đức nhất là TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn.
Tình hình khu vực: “Khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định” [62, tr. 184]. Tranh chấp lãnh thổ,
biển đảo ngày càng gay gắt, cụ
thể:
Ngày 02/5/2014 Trung Quốc ngang
nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây xôn xao dư luận quốc tế và khu vực. Cùng với đó, xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữa vai trò quan trọng trong khu vực… đã tác động đến niềm tin của Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên.
Tình hình trong nước:
Đại hội lần thứ
XI của Đảng khẳng định:
“Thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước” [62, tr. 184]. Tình hình CT XH nước ta tiếp tục ổn định; kinh tế đang khôi phục đà tăng trưởng, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, sẽ thực hiện nhiều các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực KT XH, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy vậy, “nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào” [62, tr. 84 85]. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu,
lãng phí là nghiêm trọng. Các thế
lực thù địch, phần tử cơ
hội chính trị,
chống đối tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự
diễn biến” để chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực; chúng triệt để sử dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, những vấn đề phức tạp khác để kích động tư tưởng ly khai, gây bạo loạn lật đổ ở một số khu vực trọng điểm hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Tình hình thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp khó lường… đã tác động mạnh mẽ đến tư
tưởng, tình cảm, niềm tin của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cả nước nói chung, trong Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Tình hình trên tác động cả thuận lợi và khó khăn trong công tác xây
dựng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, đặt ra yêu cầu cần xác định chủ trương, biện pháp và chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh phải phù hợp và đáp ứng thực tiễn đặt ra.
3.1.1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011) của Đảng xác định phương hướng và mục tiêu xây dựng TCCSĐ: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng” [62, tr. 259 260]. Kiện toàn tổ chức của HTCT, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là Bí thư cấp ủy. Thực hiện trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở.
Trên cơ sở phương hướng và mục tiêu trên; Đại hội đề ra các nhiệm vụ, giải pháp: Một là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao
hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả
công tác tư
tưởng,
tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị. Hai là, tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện
nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng người có đức, có tài. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số. Ba là, đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên theo yêu cầu của Điều
lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ
thể
về tư
tưởng chính trị,
trình độ
năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp
ứng
yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.
Bốn là,
đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống UBKT các cấp. Năm là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng [62, tr. 256 264].
Cụ thể
hóa Nghị
quyết Đại hội lần thứ
XI về
công tác xây dựng
Đảng, ngày 16/01/2012, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ra Nghị quyết số 12NQ/TW, “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”. Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được, Nghị quyết chỉ ra những hạn chế, yếu kém công tác xây dựng Đảng. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới,
Nghị quyết nhấn mạnh thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây: Một
là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp để
nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng
viên và của Nhân dân đối với Đảng. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người
đứng đầu cấp
ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp
ủy,
cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất được Nghị quyết xác định là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất. Thực hiện 3 vấn đề cấp bách trên, Nghị quyết xác định các nhóm giải pháp, cụ thể:
Về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng: Một là, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành. Hai là, phát huy dân chủ thật sự trong Đảng. Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Bốn là, thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy. Năm là, chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ. Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bảy là, định kỳ tổ chức để Nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua MTTQ và các đoàn thể CT XH.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng: Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị
03CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị; tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo
việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả. Hai là, đổi mới
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn.
Bốn là,
chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền.
Năm là, kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
Như vậy, chủ trương của Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết số 12
NQ/TW được thông qua tại Hội
nghị
lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng thể hiện quan điểm nhất quán xây dựng TCCSĐ trong sạch
vững mạnh. Theo đó, phải giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, xây dựng Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng
và sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân ta [62, tr. 56]. Chủ
trương của
Đảng trong những năm 2010 2015 đã thể hiện tinh thần đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng TCCSĐ, trong đó nhấn mạnh phải tập trung
chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
TCCSĐ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ. Qua đó, đã thống nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, hướng về cơ sở.
Chủ
trương trên của Đảng là cơ
sở, căn cứ
để đảng bộ
các tỉnh, thành
trong cả nước nói chung, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa nói riêng nghiên cứu, quán triệt, vận dụng; đề ra chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng xây
dựng TCCSĐ phương.
ở xã, phường, thị
trấn phù hợp với thực tiễn của địa
3.1.1.3. Yêu cầu khắc phục những hạn chế trong công tác xây dựng
tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2005 2010
tỉnh Thanh Hoá
Nhiệm kỳ 2005 2010 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo công tác xây dựng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn đã đạt được nhiều kết quả quan trong, tuy nhiên so với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn đòi hỏi thì vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, như: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở một số TCCSĐ xã, phường, thị trấn vẫn chậm được đổi mới. “Việc nắm bắt dư luận xã hội, dự báo định hướng tư tưởng chưa kịp thời, nhất là ở những nơi
có khiếu kiện phức tạp, đông người” [50, tr. 32]. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn còn: “Lúng túng trong đề ra nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp thực hiện phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, nhất là khu vực miền núi” [128, tr. 6]. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn đạt chuẩn thấp, cán bộ chuyên trách chưa đạt chuẩn về chuyên môn trên 50%, công chức gần 30%.
Số lượng đảng viên mới được kết nạp có xu hướng giảm; số thanh
niên có mặt
ở địa phương nhiều trường hợp
chưa đạt chuẩn về
văn hoá
hoặc sinh con thứ 3 nên không đủ điều kiện kết nạp vào Đảng. Số đảng viên chuyển về sinh hoạt ở xã, phường, thị trấn chủ yếu là người về hưu,
dẫn đến tình trạng tuổi trung bình của đảng viên ở
Đảng bộ cơ sở
xã,
phường, thị trấn ngày càng cao. Công tác phát triển đảng viên ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức, “nhiều chi bộ 2 3 năm, thậm chí 5
năm liên tục không kết nạp được đảng viên mới.
Việc
“xoá trắng”, “xoá
ghép” còn chậm” [128, tr. 6]; mô hình hoạt động của đảng bộ bộ phận, chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn còn lúng túng; việc xác minh lý lịch kết nạp đảng đối với người Mông từ Bắc di cư vào Tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Công tác kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ, đảng viên, có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức… Tình trạng đó đặt ra yêu cầu phải làm quyết liệt, tốt
hơn công tác phát triển đảng viên ở những địa bàn trọng yếu, vùng sâu,
vùng xa và những nơi chưa có đảng viên hoặc có ít đảng viên; phấn đấu đến năm 2015 tất cả các thôn, bản đều có đảng viên và chi bộ. Cấp ủy ở xã, phường, thị trấn phải tổ chức sơ kết việc thực hiện Hướng dẫn số 01 HD/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các thôn, bản chưa có đảng viên và chi bộ sinh hoạt ghép” ở các huyện miền núi để thực hiện tốt hơn trong nhiệm kỳ mới; trong phát triển đảng viên cần coi trọng kết nạp những người trẻ tuổi, cán bộ khoa