Cơ sở pháp lý về Du lịch và vấn đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam - 1


LỜI GIỚI THIỆU


Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá Du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được­ một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Du lịch Việt Nam đang có những bước triển biến rõ rệt, lượng khách Du lịch trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành đã đóng góp rất lớn vào nền kinh

tể nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNH­ HĐH đất

nước, cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động kinh

doanh Du lịch ngày càng cao đã đưa Du lịch trở thành một ngành “công

nghiệp không khói” đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Mặc dù vậy nhưng ngành Du lịch ở nước ta vẫn còn đơn giản, lạc hậu, chưa thực sự được chú trọng khai thác hết tiềm năng. Chúng ta phải có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chi tiết để Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ

hơn và như vậy các công ty du lịch hoạt động nghiêm túc, hiệu quả hơn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

giúp cho khách du lịch thuận tiện, thoải mái và an toàn khi đi du lịch ở Việt Nam.

Ngoài ra để phát triển ngành Du lịch cần phải hội nhập với thế giới. Đối với nước ta một nước đang phát triển thì hội nhập là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tốt hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Vấn đề đặt ra với Việt Nam không phải là có hội nhập hay không mà là hội nhập như thế nào ? tiến trình và cách thức để áp dụng tốt nhất. Thực tế cho thấy không có một quốc gia nào có thể tự lực xây dựng một nền kinh tế nội địa có hiệu quả mà không cần đến bên ngoài. Vì vậy hội nhập trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và được bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cơ sở pháp lý về Du lịch và vấn đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam - 1


Việt Nam luôn là điểm đến an toàn, tin tưởng của du khách quốc tế, vì vậy chúng ta phải xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy ngành du lịch phát triển và hội nhập với thế giới, giúp bạn bè thế giới đến với Việt Nam nhiều hơn, thông qua đó mở rộng các mối quan hệ hợp tác kinh doanh, tận dụng các điều kiện bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước nói chung và ngành Du lịch nói riêng.

Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu :” Cơ spháp lý vDu lch

và vấn đề

hội nhập quốc tế

về Du lịch tại Việt Nam” có ý nghĩa rất

quan trọng, qua đó có thể khắc phục được những điểm yếu hiện nay và

nắm vững cơ sở nhằm phát triển du lịch Việt Nam lên tầm cao mới.

Trong khuôn khổ bài Luận văn em đã đề cập tới các nội dung sau:

Lời giới thiệu.

Chương 1: Du lịch và tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân

Chương 2: Cơ sở pháp lý của du lịch tại Việt Nam. Chương 3: Hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam Kết luận.

Do thời gian và khả năng có hạn, mặc dù em đã cố gắng thu thập tài liệu, phân tích tổng hợp các thông tin để làm bài luận văn được tốt nhưng cũng không tránh khỏi các thiếu sót . Em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô để đề tài nghiên cứu này thực sự có hiệu quả.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa và đặc biệt là thầy giáo TS. Hồ Phong Tư đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài Luận văn này.


CHƯƠNG I

DU LỊCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DU LỊCH TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN


1.1 Lịch sử hình thành và phát triển

Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt trong xã hội hiện đại. Có nước coi Du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi Du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển vọng kinh tế này.

Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước

trong khu vực trở

thành ngành kinh tế

quan trọng trong chiến lược phát

triển kinh tế xã hội của đất nước.

1.2. Khái niệm về Du lịch


Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại , Du lịch đã được ghi nhận như

một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch trên thế giới vẫn chưa thống nhất. Bởi hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch


khác nhau. Đúng như một chuyên gia đã nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.

Trong giáo trình Thống kê Du lịch , Nguyễn Cao Thường và Tô Đông Hải chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với

các hoạt động chữa bệnh, thể khác.

thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu

Nhưng theo hai học giả Hoa Kỳ ­ Mathieson và Wall thì du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ.

Còn theo nhà địa lý học Michaud lại cho rằng: Du lịch là tập trung

những hoạt động sản xuất và tiêu thụ

phục vụ

cho việc đi lại và ngủ ít

nhất một đêm người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khoẻ, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo.

Như vậy, dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có một cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm Du lịch. Chính vì vậy, trong pháp lệnh Du lịch của Tổng cục du lịch Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất đinh.

1.3. Tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với nền kinh tế quốc dân

Dựa vào định nghĩa chúng ta thấy về phương diện kinh tế, Du lịch là một ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên và bao gồm sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau.

Vì vậy, Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế cao mà là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế


khác, tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế, là phương tiện quan trọng

để thực hiện các chính sách mở

cửa, là chiếc cầu nối giữa thế

giới bên

ngoài và bên trong.

Du lịch có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nền kinh tế đất nước thông qua việc tiêu dùng của du khách. Và để hiểu rõ vai trò của Du lịch trong quá trình tái sản xuất xã hội trước hết, ta quan tâm tới việc tiêu dùng của Du lịch, đó là những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, vãn cảnh thư giãn, nghỉ ngơi....

Du lịch nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và các hàng hoá phi vật chất. Do đó, nhu cầu về dịch vụ rất được du khách quan tâm.

Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng Du lịch và tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm Du lịch xảy ra cùng một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá

trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và

tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so sánh giá của sản phẩm Du lịch này với sản phẩm Du lịch kia một cách tuỳ tiện đựơc.

Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch được thể hiện thông qua

tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm Du lịch .

Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy hưởng đến những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.

ảnh

Trên bình diện chung, hoạt động Du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào

đất nước mà họ đi Du lịch , làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến,

ngược lại phần thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều

người Du lịch nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động Du lịch


làm xáo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song có tác dụng điều hoá nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu vùng xa.

Khi khu vực nào đó trở thành một điểm Du lịch , du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi

một số

lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ

các

ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế

biến......Bên cạnh đó các hàng hoá vật tư cho Du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hoá phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến...để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách.

So với ngoại thương ngành Du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không quá cao.

Qua đây, ta thấy Du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt

kinh tế

của nền kinh tế

đất nước. Ngược lại, nó cũng có một số ảnh

hưởng tiêu cực, rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng

hoá tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa

phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến Du lịch .

Việt Nam, với chủ

trương mở

cửa “làm bạn với tất cả

các nước”

nền kinh tế

Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự

chú ý của các

doanh nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm


cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế của đất

nước tăng trưởng với nhịp độ cao, mức sống của người dân ngày càng

được cải thiện, giá cả trong nước ổn định.

Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyền truyền và quảng cáo không mất tiền cho nước ta. Cụ thể, khi khách hàng đến một khu du lịch nào đó,

khách có điều kiện làm quen với một số

mặt hàng ở

đó. Khi trở về

đất

nước họ, khách bắt đầu tìm kiếm những thứ đó ở thị trường địa phương và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập những mặt hàng đó. Theo cách này, du lịch quốc tế đã góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước ta, mà nhất là trong khi chúng ta chưa có điều kiện truyền quảng bá rộng rãi nhiều sản phẩm, mặt hàng trong nước ra thị trường nước ngoài.


1.4. Đường lối đổi mới trong sự nghiệp phát triển Du lịch của Đảng ở

Việt Nam và những thành tựu về du lịch trong những năm qua

Sau khi giành được độc lập tự do trên một phần của đất nước, mặc dù còn có rất nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết dong Đảng ta đã có sự quan tâm đến hoạt động du lịch. Chỉ 6 năm sau ngày chiến thắng Điện

Biên Phủ, với Nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ,

Công ty du lịch Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Đây là lần đầu tiên ở nước ta có một cơ quan chuyên trách về vấn đề du lịch. Là một Công ty trực thuộc Bộ Ngoại thương, nhiệm vụ cơ bản của Công ty Du lịch là phục vụ các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tuy gặp nhiều khó

khăn do trình độ

chuyên môn, cơ

sở vật chất non kém gây nên nhưng tổ

chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Như vậy, quyết định này của Đảng và Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hình thành ngành Du lịch Việt Nam. Chính


vì vậy, ngày 9 tháng 7 được coi là ngày thành lập của ngành Du lịch Việt Nam.

Ngày 23/1/1979, Thủ tướng đã ban hành Nghị định 32/CP chính thức thành lập Tổng cục Du lịch. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch cho thấy Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao vai trò của du lịch trong giai đoạn mới. Điều đó đã tạo ra bước ngoặt mới đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Với cơ sở vật chất lớn mạnh, quyền hạn được mở rộng, giai đoạn này Tổng cục

Du lịch trực tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với

hàng trăm khách sạn, nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn CBCNV có trình độ và kinh nghiệm để phục vụ khách trong và ngoài nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt

Nam (12/1986) là một sự

kiện lịch sử

quan trọng, đánh dấu sự

khởi đầu

cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới. Luồng gió này đã đem lại một nguồn sinh lực mới cho tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội như kinh tế, văn hoá, giáo dục, quản lý… Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, du lịch nước ta đã thựuc sự có điều kiện khởi sắc. Có thể nói, đây là mốc thứ ba trong lịch sử phát triển Du lịch Việt Nam hiện đại. Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế đất nước đã bắt đầu có sự chuyển đổi về cơ bản. Thêm vào đó, năm 1990 được chọn là Năm Du lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động du lịch nước nhà. Hoạt động kinh doanh du lịch đã mở ra ở nhiều ngành, nhiều cơ quan, không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả những thành phần kinh tế khác. Trước xu thế đó, du lịch không chỉ còn được coi là một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý nữa mà đã được khẳng định còn là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 119 HĐBT về việc thành lập Tổng Công ty Du lịch Việt Nam.

Xem tất cả 87 trang.

Ngày đăng: 06/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí