Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 11

2. Kinh nghiệm của Singapore: Nguyên lý cơ bản của lập ngân sách theo kết quả đầu ra ở Singapore là đòi hỏi các nhà quản lý khu vực công có trách nhiệm hơn đối với công việc được giao, đồng thời tạo điều kiện cho họ có thêm quyền tự chủ trong quản lý để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Với việc thực hiện lập kế hoạch ngân sách theo kết quả đầu ra, các Bộ, Ngành sẽ được quản lý theo mô hình tự chủ tài chính. Các cơ quan thực hiện tự chủ tài chính là các cơ quan Nhà nước có kết quả đầu ra và mục tiêu hoạt động đã được xác định rõ, những cơ quan này được linh hoạt trong quản lý để có thể cung cấp dịch vụ một cách có hiệu quả hơn. Một cơ quan, đơn vị được xem là tự chủ về tài chính khi có đầy đủ 4 yếu tố cơ bản làm cơ sở cho việc lập ngân sách theo kết quả đầu ra như sau: - Xác định được trước mục tiêu công việc và sản phẩm đầu ra: Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị sẽ được làm rõ hơn vì hàng năm họ phải xác định trước đầu ra và đặt mục tiêu công việc trình lên Bộ trưởng để được phân bổ ngân sách theo hình thức “bỏ phiếu” trước đây, ngân sách được phân bổ trên cơ sở điều chỉnh tăng dự toán theo một tỷ lệ nhất định so với dự toán thực hiện năm trước. Việc điều chỉnh này sẽ bù đắp cho sự gia tăng về chi phí đầu vào như tăng giá. Hệ thống phân bổ ngân sách trước đây ở Singapore chủ yếu dựa trên yếu tố đầu vào, gắn với các nội dung chi cụ thể. Các Bộ, Ngành chỉ cần lập ngân sách theo số lượng đầu vào cần cho hoạt động của mình mà không liên kết giữa đầu vào và đầu ra. Hệ thống lập ngân sách theo kết quả đầu ra hiện nay đòi hỏi Chính phủ trở thành người mua dịch vụ thay mặt cho những người nộp thuế. Chính phủ xem các Bộ, Ngành như là những người cung cấp dịch vụ và phân bổ ngân sách cho các Bộ, Ngành theo mức độ công việc hoàn thành. Như vậy, các Bộ, Ngành sẽ có trách nhiệm hơn với công việc của mình. - Có cơ chế khuyến khích việc hoàn thành mục tiêu đề ra: Theo cơ chế điều hành ngân sách hiện hành, nguồn vốn ngân sách cấp nếu cuối năm không sử dụng hết thì phải hoàn trả ngân sách. Do đó, các Bộ, Ngành có xu hướng cố gắng sử dụng hết nguồn ngân sách thừa trước khi kết thúc năm tài khoá. Để khuyến khích hoạt động có hiệu quả hơn, các cơ quan thực hiện đạt và vượt mục tiêu ban đầu đề ra sẽ được phép giữ lại phần ngân sách còn thừa. - Áp dụng cơ chế quản lý linh hoạt: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị sẽ được trao quyền chủ động và linh hoạt tối đa đối với các vấn đề có liên quan đến tổ chức, nhân sự và

tài chính trong phạm vi ngân sách được duyệt Trong quá trình lập ngân sách theo kết quả đầu ra ở Singapore, việc xác định kế hoạch đầu ra là một công đoạn quan trọng nhất. Kế hoạch đầu ra là một công cụ tổng hợp đối với tất cả các cơ quan tự chủ, là cơ sở cho việc thực hiện lập ngân sách theo kết quả đầu ra. Trước hết, kế hoạch đầu ra với vai trò là một công cụ giám sát, bao gồm một danh mục các mục tiêu hoạt động và đầu ra hoàn chỉnh trong đó cơ quan tự chủ sẽ có nhiệm vụ phải mang lại những kết quả tương xứng với nguồn lực được phân bổ. Việc tăng cường trách nhiệm này được thực hiện đồng thời với việc tăng cường quyền quản lý. Kế hoạch đầu ra cần được soạn thảo phù hợp với kế hoạch ngân sách hàng năm và trong chừng mực có thể, việc phân bổ ngân sách cần gắn liền với mức sản lượng đầu ra. Kế hoạch đầu ra cũng chính 3 là một công cụ để đánh giá hoạt động của đơn vị nhằm khuyến khích đạt mục tiêu đã đặt ra. Ở Singapore, người ta thường sử dụng 5 chỉ số khác nhau để đánh giá kết quả hoạt động của một cơ quan, đơn vị tự chủ tài chính áp dụng phương thức lập NGÂN SÁCH theo kết quả đầu ra, đó là các chỉ số: kết quả tài chính; số lượng sản phẩm đầu ra; chất lượng dịch vụ; hiệu quả hoạt động và kết quả hoạt động

3. Kinh nghiệm cộng hòa liên bang Đức Giữa những năm 1990 Chính phủ đã bắt đầu áp dụng thêm các công cụ quản lý kinh tế với xí nghiệp vào hệ thống ngân sách để sử dụng chúng điều hành các nguồn lực. Do tình hình kinh phí ngân sách ngày càng hạn hẹp nên các dự án hiện đại hóa đầu tiên bộ máy quản lý của Liên bang đã áp dụng các công cụ và phương pháp theo kinh tế xí nghiệp. Từ đó xuất hiện khái niệm mới về công cụ điều hành trong lĩnh vực quản lý tài chính công là: tính toán chi phí và hiệu quả. Việc áp dụng các công cụ điều hành mới, đặc biệt là tính toán chi phí và hiệu quả dựa trên nghị quyết của Chính phủ ngày 7 tháng 2 năm 1996 , trong đó Bộ Tài Chính Liên bang được giao xây dựng một đề cương chuyên môn để tính toán chi phí và hiệu quả trong bộ máy quản lý của liên bang. Tháng 8 năm 1997 thì cẩm nang tính toán chi phí và hiệu quả chuẩn được ban hành , tạo cơ sở cho việc xây dựng các đề án của từng cơ quan. Đây là khuôn khổ để các cơ quan của Liên bang có thể tiếp tục xây dựng cách tính toán chi phí hiệu quả và bao gồm nhiều quy định về các kế hoạch, các loại chi phí và kết quả, các vấn đề liên quan đến tính toán và tính

toán loại chi phí và sản phẩm. Ngoài ra cẩm nang còn định nghĩa các sản phẩm quản lý được tất cả các cơ quan lập ra và là cơ sở cho việc xác định được mục tiêu. Tiếp theo luật Ngân sách thông qua ngày 22 tháng 12 năm 1997 sửa đổi luật các nguyên tắc cơ bản trong ngân sách và Luật Ngân sách Liên bang theo hướng bắt buộc phải thực hiện tính toán chi phí và hiệu quả trong một số lĩnh vực phù hợp 4 thuộc bộ máy của Liên bang. Từ năm 1997 Bộ Tài Chính Liên bang đã hỗ trợ tài chính và phân phối thực hiện 26 dự án điểm. Ngoài ra 24 cơ quan của Liên bang cũng tự thực hiện tính toán chi phí và hiệu quả. Thông qua Uỷ ban Ngân sách của Quốc hội Liên bang, năm 2000 đã bắt đầu một dự án điểm , dự án này thử nghiệm độ tin cậy và tác dụng của ngân sách sản phẩm như một công cụ điều hành định hướng đầu ra. Ngân sách đầu ra được coi là sự bổ sung cho kế hoạch ngân sách và phải có tác dụng cung cấp cho các nhà quản lý và các nghị sĩ các thông tin định hướng đầu ra và sự minh bạch. Còn ở cấp Bang thí điểm áp dụng phương thức điều hành mới theo cơ chế khoán chi dựa trên kết quả, trong đó bao gồm : phân cấp và hòa nhập trách nhiệm chuyên môn và trách nhiệm tài chính, định hướng theo mục tiêu và hoạt động của cơ quan hành chính , cải cách ngân sách và kế toán. Theo đó mỗi cơ quan sẽ nhận được một cục, họ sẽ tự chịu trách nhịêm và tự quyết định chi bao nhiêu cho mục đích nào và chi như thế nào. Các đơn vị được giao nhiệm vụ được định nghĩa rõ ràng trách nhiệm, kinh phí, thẩm quyền để thực hiện một sản phẩm hay một kết quả cụ thể. Khoán chi có phân cấp được hiểu là một hệ thống phân cấp trách nhiệm của một cơ quan trong khuôn khổ tài chính của mình và với khối lượng kết quả quy định trước, tự quyết định việc sử dụng kinh phí phù hợp nhu cầu về thời gian và bản chất, nguyên tắc là không vượt quá khuôn khổ tài chính cho phép. Khi lập kế hoạch gắn với đầu ra, kế hoạch ngân sách bao gồm kế hoạch công việc, kế hoạch kết quả, kế hoạch tài chính. Quyết toán được thực hiện trên cơ sở kế toán kép có tính toán chi phí và hiệu qủa thông qua quyết toán kết quả, tài sản và tài chính được bổ sung thêm để báo cáo về công việc. Mục tiêu và kết quả thể hiện trong kế hoạch kinh tế liên quan đến cơ quan sẽ thay thế cho kế hoạch ngân sách với cơ cấu chương trình như hiện nay.

4. Kinh nghiệm cộng hòa Pháp Phương thức quản lý chi ngân sách theo kết quả đầu ra đã áp dụng trong ngân sách, cụ thể là các hợp đồng dịch vụ được sử dụng

khi xây dựng dự toán ngân sách lần đầu tiên được áp dụng năm 1997 và đến năm 1999 các hợp đồng mục đích và hợp đồng phương tiện được áp dụng trong quản lý ngân sách, đây là những phương thức quản lý ngân sách mới dựa trên và hướng vào kết quả đầu ra mà Chính phủ Pháp đã bắt đầu thực hiện trong lĩnh vực quản lý ngân sách. Luật ngân sách năm 1999 là một trong những văn bản luật quan trọng, tuy nhiên nhiều điểm chưa hợp lý. Đến năm 2001 , Luật ngân sách mới được ban hành với những mục tiêu nâng cao vai trò của nghị viện trong quá trình lập và thông qua ngân sách, áp dụng các khái niệm kết quả, hiệu quả, và minh bạch trong phương thức quản lý ngân sách. Cụ thể là các quy định tập hợp kinh phí nhấn mạnh đến kết quả, thay vì thông tin trước đây dựa trên chi phí đầu vào, các mục tiêu để lập và thực hiện ngân sách được dựa trên cơ sở nhiệm vụ với nhiều chương trình khác nhau. Luật cũng đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả của quản lý tài chính công ỏ nội dung phương pháp gắn với hiệu quả. Đó là phân bổ ngân sách một cách tổng thể hơn theo các chương trình; các nhà quản lý ở đơn vị mình được tự do phân bổ lại kinh phí theo bản chất từng loại kinh phí, bớt kiểm tra từ bên ngoài trong quá trình quản lý(xóa bỏ kiểm tra từ bên ngoài về tính tuân thủ quy định pháp luật và thay vào đó bằng kiểm tra ngân sách tổng thể). Đồng thời đặt ra chính sách công do Nhà nước tài trợ phải gắn với mục tiêu, các chỉ số đo kết quả, đo lường kết quả của các chính sách thông qua đánh giá tính hiệu quả của nó (đôí với công dân), chất lượng dịch vụ(nguời sử dụng hoặc khách hàng) và năng suất. Qúa trình kiểm tra chất lượng và đánh giá kết quả do một cơ quan độc lập đảm nhận. Sau khi thực hiện, cán bộ của từng chương trình sẽ báo cáo với Bộ 6 trưởng về cam kết đưa ra, báo cáo với nghị viện về kết quả hoạt động, với thẩm kế viện trong trường hợp quản lý kém.

5. Kinh nghiệm Hoa Kì: Đối với các cơ quan Chính Phủ, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động trong 1 thời kì trng hạn (3-5). Mỗi chương trình cần cụ thể hóa các nội dung: Nội dung, Kết quả kì vọng, Kế hoạch hoạt động, Phương thức quản lý, Tính toán và đo lường hiệu quả. Đồng thời các cơ quan cũng xác định được mức độ ưu tiên với từng chương trình, từng hoạt động trong mỗi chương trình để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân bổ ngân sách.

Văn phòng quản lý ngân sách căn cứ vào đánh giá tình hình kết quả hoạt động của các cơ quan Chính Phủ dự toán ngân sách do các cơ quan này trình lên để thảo luận được thực hiện bao gồm các bước:

Bước 1: Đánh giá lại các hoạt động theo chương trình, dự án có đạt hiệu quả mang lại lợi ích cho Chính Phủ Hoa Kì hay không?

Bước 2: So sánh kết quả và hiệu quả của từng chương trình và các chương trình tương tự, so sánh với thời kì trước, so sánh giữa các cơ quan khác…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

Bước 3: Xác định mục tiêu, kết quả cho thời kì mới

Bước 4: Thảo luận và đưa ra các quyết định về ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ và các hoạt động trong năm mới.

Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 11

Có thể nói cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra cho những người đứng đầu các cơ quan Chính Phủ quyền hạn cao hơn, những trách nhiệm cũng lớn đối với các khoản chi ngân sách. Chính vì thế, nó bảo đảm hiệu quả trong hoạt động của mình và mỗi cơ quan Chính Phủ phải thường xuyên tự đánh giá hoạt động cơ quan mình thông qua cơ chế và tổ chức do cơ quan đó đặt ra.

Bộ Tài chính Phần Lan thực hiện quản lý hướng tới kết quả, trong đó chi phí hoạt động của tất cả các cơ quan sẽ được dựa trên ngân sách cấp theo kết quả thực hiện của năm trước. Tất cả các bộ đều được yêu cầu vạch ra chương trình chất lượng và năng suất lao động cho 5 năm sau. Chính phủ Canada đã coi phân tích chi phí - hoạt động trong quản lý công là một phương pháp cơ bản để hạch toán chi phí và lựa chọn các phương án cung cấp dịch vụ công tốt cho cộng đồng. Ở Mỹ, nếu chính phủ đạt được mục tiêu tăng hiệu suất hoạt động của khu vực công lên 15% thì hàng năm ngân sách liên bang sẽ tiết kiệm được 134 tỷ đôla trong dự kiến chi tiêu liên bang 900 tỷ

đôla năm 20108.

Một trong những hướng đi mà nhiều nước trên thế giới đang quan tâm là thay đổi cách thức quản lý của nhà nước đối với hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công. Đối với các loại dịch vụ do chính nhà nước cung ứng, các nước đang tìm kiếm cách thức cung ứng theo mô hình 3E: tiết kiệm, kết quả và hiệu quả (Economy - Effectiveness - Efficiency). Sự thay đổi này đang diễn ra theo hướng áp dụng kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân vào việc quản lý cung cấp dịch vụ bằng nguồn ngân sách nhà nước và do chính các chủ thể của nhà nước cung cấp. Và quản lý sản

8 Lê Chi Mai (2004), Quản lý dịch vụ công, NXB. Thống kê, Hà Nội.

phẩm đầu ra vốn rất thành công trong khu vực tư nhân đang được nhiều chính phủ xem xét áp dụng

3.2. Một số giải pháp triển khai chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích

Quản lý sản phẩm đầu ra là phương thức quản lý mới tiên tiến được nhiều nước tiếp cận, trong đó có cả những quốc gia có nền kinh tế phát triển có nguồn lực tài chính dồi dào và cả những nước đang phát triển. Điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia luôn cao hơn các nguồn lực hiện hữu và bị giới hạn. Chính vì vậy cần sử dụng các nguồn lực này phải đảm bảo tiêu chí hiệu quả và minh bạch, công khai. Quản lý sản phẩm đầu ra chính là để giải quyết yêu cầu đó. Bằng cách lượng hóa được hiệu quả việc sử dụng nguồn lực công thông qua những kết quả đầu ra cụ thể để mọi người dân đều có thể đánh giá, giám sát được.

Việt Nam là một nước mới bắt đầu phát triển kinh tế thị trường, từ một đất nước hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, trình độ quản lý còn bất cập; trong khi đó nhu cầu đầu tư từ các nguồn lực mà trong đó Ngân sách Nhà nước để phát triển kinh tế xã hội của đất nước là vô cùng lớn, khả năng huy động từ GDP còn thấp. Vì vậy việc sử dụng nguồn lực công gắn với kết quả càng đặt ra đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên, đây lại là phương thức mới, để đo đếm hiệu quả cung ứng SP, DVCI bằng kết quả đầu ra cần có một hệ thống khuôn khổ pháp lý tiên tiến, hạ tầng công nghệ thông tin, đội ngũ cán bộ quản lý tư duy và trình độ đủ để tiếp cận với phương thức mới. Nhất là trong bối cảnh nước ta hầu hết chưa tiếp cận với những phương thức tiên tiến mà nhiều thập kỷ nay vẫn đang áp dụng phương thức truyền thống đầu vào, do vậy ngân sách vốn đã ít ỏi laị bị dàn trải và sử dụng kém hiệu quả. Kinh nghiệm cuả các nước đang áp dụng như Đức, Pháp cho thấy phải tốn nhiều thời gian và nguồn lực để xây dựng hệ thống quản lý chi tiêu công dựa theo kết quả đầu ra và cũng phải mất nhiều thời gian trong việc phát triển các kế hoạch mục tiêu chiến lược, kiểm tra dữ liệu kết quả để thiết lập những khuynh hướng và đánh giá công việc thực hiện so với mục tiêu đề ra. Do đó, trước hết Việt Nam cần thay đổi khuôn khổ pháp luật về DNCI để có thể áp dụng quy trình quản lý sản phẩm đầu ra, các văn bản pháp quy xây dựng theo hướng nêu rõ tiêu chí đầu ra, cách lập quy trình, nhiệm vụ của các cơ quan liên quan. Sự thay đổi này cần dựa trên tư duy đổi mới trong việc xác định mục tiêu kế hoạch, kế hoạch phải căn cứ vào việc hiện thực phân tích

quan hệ cung cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường để tính tốc độ tăng trưởng từ đó xác định mục tiêu. Theo đó, nhà nước cũng cần cần hủy bỏ hệ thống định mức phân bổ ngân sách theo đầu người, chuyển từ cấp phát ngân sách dựa theo nguồn lực đầu vào sang hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu và kết quả đầu ra và trao mạnh quyền tự quyết của đơn vị dự toán khi đã nhận được các nguồn tài chính hợp pháp. Từ hệ thống quản lý vĩ mô khuyến khích phương thức quản lý sản phẩm đầu ra đó, DNCI có cơ sở có tự chủ hơn trong các hoạt động cung ứng SP, DVCI như: Công ty Quản lý công trình giao thông Sài Gòn (thuộc Sở Giao thông công chính) đã áp dụng công tác khoán quản lý sửa chữa thường xuyên đường bộ đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Thông qua việc triển khai công tác khoán đã tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc nhanh chóng sửa chữa, duy tu đường, góp phần quan trọng trong việc thực hiện Nghị định 36/CP của Chính phủ về lập lại trật tự an toàn giao thông đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với xã hội: đường sạch đẹp hơn, giao thông an toàn hơn, hệ thống biển báo giao thông đầy đủ và rõ ràng hơn. Đối với người quản lý: phải thi công đúng quy trình, quy phạm, bảo đảm chất lượng, phải thi công nhanh hơn, quá trình thi công đảm bảo tuyệt đối an toàn lao động, an toàn giao thông, mỹ quan đô thị. Thực hiện phương án khoán quản lý, sửa chữa đường bộ đã đáp ứng được nguyện vọng của người dân, tiếng nói của công luận thể hiện ở chỗ: mọi sự cố phát sinh trên hệ thống đường bộ đều được phản ảnh hoặc trực tiếp (qua điện thoại hoặc phản ánh trực tiếp), hoặc gián tiếp (qua đơn thư, báo chí…) đến Công ty quản lý và chậm nhất sau 24 giờ đã được xử lý. Cũng từ đây, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ xã hội của người quản lý được nâng cao, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Thời gian đầu nhận khoán, trung bình Công ty nhận được từ 10 ÷ 20 ý kiến phản ánh/ngày của nhân dân về tình trạng sự cố cầu đường phải xử lý. Thời gian hiện nay chỉ còn 2 ÷ 3 ý kiến phản ánh/ngày mà tính chất lại không ảnh hưởng đến an toàn giao thông như trước (ví dụ: nước đọng trên đường).

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống thể chế, để thực thi được chính sách quản lý sản phẩm đầu ra trong thực tế nhà nước và doanh nghiệp cần hoàn thiện 3 hệ thống căn bản sau: Một là hệ thống thông tin: Một trong những tiền đề quan trọng đảm bảo cho sự thành công là hệ thống thông tin công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Thông tin đầy đủ về thực trạng hoạt động của DNCI dựa trên đầu ra và kết quả hoạt động cần được bảo đảm đầy đủ, chính xác, cập nhật và có hệ thống. Phát triển hệ thống đo lường

kết quả hoạt động, xác định các chỉ số và hệ thống giám sát việc thu nhập, tổng hợp và xử lý dữ liệu đòi hỏi kỹ thuật cao và đầu tư lớn. Việc thiết lập 1 hệ thống đánh giá kết quả đầu ra của DNCI là lớn, bao gồm đánh giá ở tầm vĩ mô và cả ở các đơn vị cơ sở nhằm thấy được hiệu quả hoạt động của từng đơn vị cũng như tổng thể nền kinh tế đòi hỏi cần thời gian và nguồn lực tương xứng. Hai là hệ thống nhân lực phù hợp với phương thức quản lý theo kết quả đầu ra. Cơ chế quản lý sản phẩm đầu ra đòi hỏi cần phải có 1 đội ngũ cán bộ khá lớn và trình độ cao, có kiến thức kinh tế và ngành kinh tế kỹ thuật khác để có thể đánh giá tình hình hoạt động của DNCI. Đồng thời có khả năng phân bổ các nguồn lực xã hội hữu hạn cho các mục tiêu ưu tiên nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển toàn diện nền kinh tế- xã hội. hình thành hệ thống các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của DNCI, trong đó lưu ý các tiêu chí về hoàn thành nhiệm vụ cung ứng dịch vụ cho xã hội về số lượng, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người dân về dịch vụ đó. Khi các đơn vị có quyền tự chủ khá cao, các tiêu chí đầu ra là căn cứ để cấp trên xem xét về năng lực hoạt động của DNCI và đòi hỏi có các biện pháp cải cách cần thiết. Việc xác định các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của DNCI cung ứng dịch vụ công sẽ gắn quyền hạn với trách nhiệm của các đơn vị này và đòi hỏi sự giải trình nghiêm túc của các đơn vị trước nhà nước và trước khách hàng của mình.

Khởi đầu cho cải cách theo chính sách quản lý mới nên thực hiện thí điểm ở một vài đơn vị điển hình, sau đó rút ra những kinh nghiệm thành công và kiểm tra những cách tiếp cận khác nhau trước khi thể chế hoá và phổ biến áp dụng rộng rãi phương thức quản lý chi tiêu công dựa theo kết quả đầu ra. Cách tiếp cận từ từ như vậy có thể khắc phục được tư tưởng nóng vội, chủ quan và khắc phục những kém hiệu quả trong quá trình thực hiện. Cần phải có sự cam kết về chính trị và sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo ở cấp cao nhất để đưa ra quyết định liên quan đến chính sách quản lý sản phẩm đầu ra, kể cả những nỗ lực thuộc về bên trong của tổ chức là các cơ quan, đơn vị công quyền, phải tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ.

Kiểm tra và đánh giá công việc thực hiện đều phải được xem là công cụ quan trọng của hệ thống quản lý sản phẩm đầu ra, chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Cần gắn kết chặt chẽ quyền tự chủ và trách nhiệm của người quản lý trong hệ thống lập ngân sách theo kết quả đầu ra. Cần tạo điều kiện cho công chúng, những nhà tài trợ, những người thụ hưởng tham gia tất cả các giai đoạn của hệ thống lập ngân

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/05/2022