Xây Dựng Hệ Thống Tư Vấn, Đào Tạo Nâng Cao Năng Lực Kinh Doanh Trong Cả Nước


Trong Luật thúc đẩy sáng tạo hoạt động kinh doanh mới cũng có những quy định nhằm phát triển công nghệ kỹ thuật như tăng ngân sách vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. (Năm 2004, chính phủ Nhật đã chi hơn 30 tỉ yên vào hoạt động này). Cũng trong Luật này, chính phủ cũng có những biện pháp thương mại hoá kết quả R&D như giảm chi phí bằng sáng chế… Trong năm 2006, chính phủ Nhật cũng đã ban hành Luật hỗ trợ nâng cao công nghệ sản xuất của các SME. Luật mới này được ban hành nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu và phát triển trong các SME, chịu trách nhiệm về tiến bộ công nghệ sản xuất như đúc khuôn, mạ…Mục tiêu của các hỗ trợ này là tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của ngành sản xuất và phát triển số lượng doanh nghiệp.

Hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin : Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các biện pháp nhằm nâng cao trình độ công nghệ thông tin cũng được chú ý nhiều.

Tổ chức các hội thảo đào tạo thương mại điện tử cho các doanh nghiệp tại các trung tâm hỗ trợ SME tại các tỉnh, tổ chức SMRJ, JCCI, cử các chuyên gia về công nghệ thông tin đến các doanh nghiệp để hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc ứng dụng.

Phát triển các mô hình ứng dụng và đầu tư cho công nghệ thông tin. Nếu doanh nghiệp nào có mô hình tốt, trở thành mô hình kiểu mẫu sẽ được hỗ trợ 1/2 chi phí nghiên cứu nâng cao.

Tại Việt Nam, hiện nay, trình độ công nghệ của các SME còn rất kém. Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Còn doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía Bắc là rất thấp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%. Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thương mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp phía Bắc còn rất thấp, chưa tương xứng với mong muốn


phát triển thương mại điện tử của Chính phủ. Trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp phía Bắc nói riêng, chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường.

Một mặt đó là do bản thân các SME vẫn chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết của việc nâng cao trình độ công nghệ. Mặt khác, những quy định của chính phủ về vấn đề này vẫn chưa thật sự đầy đủ. Các quy định được ban hành trong thời gian qua như Luật khoa học và công nghệ(2000), Nghị định số 81/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ, Nghị định số 99/2003/NĐ-Cp ban hành Quy chế khu công nghệ cao mặc dù phần nào đã định hướng và hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nhưng còn có một số bất cập. Ví dụ như việc khuyến khích, hỗ trợ mới chỉ bó hẹp trong vài lĩnh vực; thủ tục, trình tự xét duyệt còn chậm, cơ chế cấp và thanh quyết toán còn lúng túng dẫn đến việc tổ chức thực hiện và giải ngân chậm; việc tổ chức xét duyệt tập trung( đăng ký, xét duyệt, thẩm định kinh phí tại Bộ khoa học và công nghệ, cấp kinh phí trực tiếp từ Bộ Tài chính) với hình thức chủ yếu dựa trên hồ sơ đăng ký. Do vậy, các SME vẫn chưa thật sự hào hứng với những khuyến khích trong lĩnh vực này.

3.3. Hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp là một nguồn lực hết sức quan trọng, có sự tác động đến tất cả các nguồn lực còn lại. Vì vậy, chính phủ Nhật đã hết sức quan tâm để phát triển nguồn lực này. Chính phủ rất khuyến khích các hoạt động phát triển kỹ năng trong các doanh nghiệp thông qua các khoá học dành cho những người có trách nhiệm phát triển hoạt động hướng nghiệp và các hội thảo quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, chính phủ cũng hỗ trợ chi phí cho những doanh nghiệp có chương trình đào tạo nghề và hoạt động hướng nghiệp được công nhận. Nhiều trung tâm tư vấn, thông tin và trợ giúp về kỹ năng nghề nghiệp cũng được hỗ


Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 12

trợ. Những người lao động chuyển việc hoặc nghỉ việc cũng được chú ý đào tạo. Trong trường hợp các SME tăng chi phí đào tạo so với mức trung bình của hai năm trước đó thì thuế sẽ được giảm 25% tính cho phần tăng thêm.

Như vậy, có thể thấy chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các SME. Điều đó đảm bảo cho các SME có thể nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển.

Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phiá Bắc, có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Về lao động kỹ thuật, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế, hơn 84% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Chênh lệch giữa tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học và kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật có xu hướng ngày càng giãn rộng( 1:1,5:1,7 ; trong khi tỷ lệ hợp lý tại các nước phát triển là 1:4:7)[4.102]. Như vậy, cơ cấu lao động của Việt Nam không hợp lý, ngoài ra chất lượng đào tạo thấp, không phù hợp với nhu cầu thực tế.

3.4. Xây dựng hệ thống tư vấn, đào tạo nâng cao năng lực kinh doanh trong cả nước

Nếu như trong các giai đoạn trước, các chính sách tập trung vào các biện pháp hỗ trợ về vốn, công nghệ, chống độc quyền thì hiện nay một trong những mục tiêu mà chính phủ Nhật thực hiện là nâng cao năng lực quản lý cho SME( theo Luật cơ bản về SME 1999). Do vậy, bên cạnh những biện pháp hỗ trợ về vốn, công nghệ, đảm bảo cạnh tranh công bằng vốn đã được thực hiện từ giai đoạn trước, các biện pháp của chính phủ hiện nay tập trung vào hệ thống tư vấn, dịch vụ phát triển kinh doanh rộng khắp trong cả nước.


Thành lập các trung tâm hỗ trợ “ một điểm”

Chính phủ đã thiết lập một hệ thống các trung tâm hỗ trợ “một điểm ” nhằm hỗ trợ về vốn, và các nguồn lực vô hình khác như thông tin, công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các SME ở từng tỉnh, thành phố, quận huyện. Đây là một hệ thống tận dụng được kỹ năng và kinh nghiệm của những nhà chuyên môn trong lĩnh vực tư nhân nhằm hỗ trợ cho các SME về thông tin, chính sách của nhà nước cũng như hỗ trợ kinh doanh và công nghệ. Điểm đặc biệt là trong hệ thống này, tất cả những trung tâm hỗ trợ của nhà nước và tư nhân được hợp nhất chỉ tại một địa điểm ở mỗi địa phương. Tại đây, các doanh nghiệp có thể được tư vấn về bất cứ vấn đề gì. Mục tiêu của những trung tâm thuộc hệ thống này là các SME khi đến đây đều có thể giải đáp mọi thắc mắc, không cần phải sang trung tâm thứ hai. Chính vì vậy hệ thống này có tên là "một điểm".

Hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các SME còn có thể nhận hỗ trợ qua hệ thống internet thông qua một hệ thống các trang web có tên là J- Net21.

Các hệ thống hỗ trợ này đều có hệ thống đánh giá hiệu quả. Thông qua đó chính phủ có thể biết được hiệu quả thực tế của các biện pháp hỗ trợ đã thực hiện. Từ đó chính phủ sẽ có những biện pháp hỗ trợ phù hợp hơn.

4. Khuyến khích hình thành các liên kết kinh tế

Ở Nhật Bản, điều quan trọng hàng đầu là truyền thống của một cộng đồng hơn là của cá nhân, và đặc trưng này đã đóng góp nhiều vào tính chất đồng nhất của xã hội Nhật Bản. Trong nền kinh tế nói chung và trong khu vực kinh tế của các SME nói riêng, đặc điểm này cũng đóng một vai trò quan trọng. Có thể thấy điều đó qua những đóng góp của các keiretsu và các hiệp hội doanh nghiệp đối với các thành tựu mà kinh tế Nhật đã đạt được trong nhiều thập niên qua. Sự hình thành và phát triển của các keiretsu cũng như sự liên kết giữa các công ty Nhật có thể xuất phát từ đặc điểm truyền thống, từ yêu cầu của tình hình thực tế nhưng cũng không thể phủ nhận được những tác động của các chính sách mà chính phủ Nhật đã thực hiện.


Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích việc thành lập sự liên kết giữa các doanh nghiệp. Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể liên kết chặt chẽ hơn, có sự hợp tác hỗ trợ nhau nhiều hơn. Mặc dù, những sự liên kết này có thể là một trong những yếu tố tạo ra tính chất "co cụm và khép kín" của thị trường Nhật Bản nhưng khi so sánh với những gì mà nó đã làm được cho nền kinh tế Nhật thì quả thật điều đó là xứng đáng. Hơn nữa, sự liên kết chặt chẽ của các doanh nghiệp với chính quyền các cấp, các viện, các trường đại học…cũng rất đáng để Việt Nam học tập.

Với điểm xuất phát thấp, năng lực cạnh tranh không cao, các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ không đủ khả năng chống chọi với những doanh nghiệp lớn, những công ty xuyên quốc gia. Vì vậy, nếu muốn tồn tại các SME Việt Nam không còn con đường nào khác phải tăng cường các mối liên kết kinh tế. Đối với các SME Việt Nam hiện nay, vấn đề trước mắt vẫn là thầu phụ công nghiệp. Trong những nghiên cứu mới đây về thầu phụ công nghiệp do Trung tâm hỗ trợ SME đưa ra thì các SME Việt Nam dường như đang rất khó khăn trong việc lọt vào chuỗi cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Cho dù đây được xem như là một trong những chiến lược thị trường ngách tối ưu song những gì mà sản phẩm Việt Nam len chân được vào các hãng tên tuổi cho tới thời điểm này chỉ là thùng carton và xốp chèn. Do vậy, liên kết giữa SME với hệ thống ngân hàng, các cơ quan chính phủ, các hiệp hội ngành nghề và với các SME chính là cơ hội để các SME của Việt Nam định vị trong chuỗi giá trị toàn cầu, là con đường để các SME Việt Nam lớn mạnh.

5. Thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành

Có thể thấy, các chính sách chính phủ Nhật đưa ra đều đã được thực hiện một cách hiệu quả. Mỗi chính sách đưa ra đều được theo dõi, kiểm tra sát sao tình hình thực hiện. Hàng năm, Nhật Bản đều tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát về môi trường hoạt động, về hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ. Từ đó, chính phủ sẽ có những điều chỉnh về biện pháp, những chương trình phù hợp với tình hình thực tế hơn. Do vậy, những chính sách, biện pháp mà Nhật đã thực hiện có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của các SME. Những chính sách đó, một mặt phát huy hết tiềm lực


của các SME. Mặt khác, loại bỏ những hạn chế, bất lợi đối với sự phát triển của các SME.

Ở Việt Nam hiện nay, công tác theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư còn yếu. Việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ SME hầu như không được tiến hành thường xuyên, nên không đánh giá được tác động thực sự của các chính sách này. Việc phối hợp giữa các cơ quan thực thi chính sách còn chưa đồng đều ở các ngành và địa phương. Việc tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ SME ở một số ngành và địa phương vẫn chưa tốt.

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước là đúng đắn, song một số Bộ, ngành hướng dẫn triển khai chậm, có khi các quy định dưới Luật lại chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật; cơ quan cấp dưới không tuân thủ đúng quyết định, chỉ thị của cấp trên; có nhiều cơ quan Nhà nước cùng quản lý một lĩnh vực…Do vậy, có tình trạng chính sách ưu đãi của Chính phủ không đến được với các doanh nghiệp.‌

Do vậy, để các chính sách hỗ trợ SME thật sự phát huy tác dụng, trước hết cần tập trung tổ chức thực hiện tốt các quy định hiện hành. Đồng thời, cần sớm phát hiện các quy định bất cập để có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời và ban hành những cơ chế chính sách mới để tạo sự đồng bộ, hỗ trợ SME hiệu quả hơn.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SME Ở VIỆT NAM

Từ những bài học kinh nghiệm của Nhật và tình hình thực tế tại Việt Nam, có thể thấy trong thời gian trước mắt, Việt Nam cần tiến hành một số biện pháp như sau:

1. Đổi mới nhận thức, quan điểm và định hướng về SME trong bối cảnh hiện nay

Ở Việt Nam, nhận thức và quan điểm về việc phát triển SME hình thành khá muộn so với các quốc gia trên thế giới. Mặc dù hiện nay vai trò của các SME đã được khẳng định và không ngừng tăng lên nhưng còn có những nơi không nhận thức hết vai trò và đánh giá không đúng khả năng của các SME. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay càng đòi hỏi cần phải có sự đổi mới nhận thức, quan điểm và định hướng về SME.

Ở nước ta đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều hợp tác nghiên cứu về SME, song đến nay gần như vẫn chưa có các văn bản pháp lý chính thức về loại hình doanh


nghiệp này. Vấn đề còn đang dừng lại ở thuật ngữ và những định hướng chung (mặc dù Chính phủ đã có những văn bản như: Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg ngày 11 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;…). Vì vậy, việc đầu tiên là cần phải khẩn trương xúc tiến đầu tư kinh phí và lực lượng để nghiên cứu và ban hành ngay các văn bản luật hoặc nghị định Chính phủ về vị trí, vai trò, tiêu chí đánh giá, cũng như các chính sách hỗ trợ cho SME.

2. Tạo môi trường thuận lợi cho SME

2.1. Xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ

Để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của SME. Điều đầu tiên là cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý chung. Mặc dù hệ thống pháp luật của Việt Nam điều chỉnh hoạt động của các SME trong thời gian qua đã thường xuyên được ban hành mới, bổ sung và sửa đổi. Tuy nhiên, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh khung khổ pháp lý cho một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu. Cụ thể là: cần hoàn thiện hơn nữa khung khổ pháp lý để tự do hoá hơn nữa quyền kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc gia nhập và rời khỏi thị trường của doanh nghiệp; thiết lập khung khổ pháp lý cho việc duy trì đối thoại thường xuyên và hiệu quả giữa chính phủ với doanh nghiệp, giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, giữa các cơ quan nhà nước khác với doanh nghiệp để đảm bảo các cuộc đối thoại này là hữu ích và thiết thực, mang lại lòng tin cho doanh nghiệp và tăng thêm trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra,Việt Nam cũng cần hoàn chỉnh khung khổ pháp lý cho hỗ trợ SME (ban hành Luật về các hoạt động hỗ trợ phát triển SME). Khung khổ này cần quy định bản chất của sự hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ thông qua các chương trình, các hình thức hỗ trợ, trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với việc hỗ trợ SME, xác định rõ vai trò của Nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong việc hỗ trợ phát triển SME.


2.2. Cải thiện môi trường kinh doanh

Không những tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi trong nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế mạnh mẽ như hiện nay nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để các SME có thể hoạt động thuận lợi hơn nữa ở thị trường nước ngoài. Để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, các cơ quan ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc cung cấp thông tin về pháp luật, thị trường, thị hiếu, yêu cầu chất lượng sản phẩm, các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm của các nước giúp SME trong nước có thể thu thập được đầy đủ thông tin, từ đó xây dựng được chiến lược thâm nhập thị trường hiệu quả. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các SME trong nước tổ chức chiến dịch quảng cáo, triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài. Vì hiện nay, trong hầu hết các chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư, tham gia hội chợ ở nước ngoài do Nhà nước tổ chức thì các doanh nghiệp lớn của Nhà nước luôn là đối tượng được ưu tiên trước, “phần còn lại” mới dành cho doanh nghiệp tư nhân…Bên cạnh đó còn có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp ở trung tâm kinh tế như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.. với các doanh nghiệp tại các địa phương, cơ hội tiếp cận chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước là rất chênh lệch giữa các doanh nghiệp. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh hơn nữa để nâng cao năng lực của mạng lưới xúc tiến thương mại, hỗ trợ đại diện thương vụ tại các nước nhằm tăng cường năng lực cho các tổ chức xúc tiến thương mại trong hoạt động phát triển thị trường cho SME.

2.3. Tạo môi trường tâm lý xã hội tích cực

Ngoài ra, cũng cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của các SME. Một mặt, tiếp tục tạo môi trường tâm lý xã hội tích cực cho SME thông qua việc tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với SME. Mặt khác, động viên khích lệ, biểu dương, khen thưởng kịp thời những doanh nhân kinh doanh thành công, có nhiều đóng góp cho xã hội. Ngoài ra, cũng cần giáo dục văn hoá kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí