Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay - 13


BHTN 1

Trả trợ cấp thất nghiệp

Bổ sung thêm nhiệm vụ Bổ sung thêm nhiệm vụ

Mô hình 1


Hỗ trợ học nghề


Hỗ trợ tìm việc làm


Đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp


Chi phí quản lý


Hồ sơ tham gia

4

BHTN


Hồ sơ hưởng

5

BHTN


Quản lý nhà

6 nước

về BHTN

Thanh tra về

7

BHTN

Bộ máy thực

8 hiện chính sách

BHTN

Trả kinh phí cho các tổ chức dạy nghề để đào tạo nghề

Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ


Đang thực hiện nhiệm vụ này


Chỉ cần bổ sung thêm một phần kinh phí

Hình thành hồ sơ cùng bộ hồ sơ tham gia BHXH

Hồ sơ có nhiều điểm tương tự hồ sơ hưởng chế độ BHXH


Không có chức năng này


Không có chức năng này


Đă có

Trả kinh phí cho các tổ chức dạy nghề để đào tạo nghề

Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ


Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ


Chi phí quản lý lớn


Sẵn sàng thực hiện


Sẵn sàng thực hiện


Dựa vào chức năng của Ngành Lao động


Dựa vào chức năng của Ngành Lao động

Đă có nhưng chồng chéo, chi phí nguồn nhân lực cao.


Mô hình 2


Mô hình 2


Mô hình 1


Mô hình 1


Mô hình 1


Mô hình 1


Mô hình 2


Mô hình 2


Mô hình 1



9


10

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

Mạng lưới thực hiện thu, chi BHTN

Đă có


Đă hình thành mạng lưới

từ huyện đến tỉnh

Đang hình thành


Dựa vào ngành BHXH Việt Nam

Mô hình 1


Mô hình 1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay - 13

Nguồn: Tổng hợp của tác giả.


Từ nội dung trên và xem xét các chỉ tiêu theo bảng trên, có thể đưa ra các nhận xét như sau:

Đối tượng tham gia BHTN:


Đối tượng tham gia BHTN là một bộ phận trong số lao động tham gia BHXH mà hiện tại BHXH Việt Nam đang quản lý, vì vậy rất thuận lợi khi lựa chọn mô hình thứ nhất để thực hiện chính sách BHTN.

Người sử dụng lao động tham gia BHTN:


Đơn vị sử dụng lao động là một bộ phận trong số đơn vị sử dụng lao động đă tham gia với cơ quan BHXH thực hiện chế độ BHXH cho người lao động. Lựa chọn mô hình thứ nhất vừa đáp ứng được các yêu cầu: thuận tiện, nhanh chóng, gọn, nhẹ, tiết kiệm chi phí quản lý, tiết kiệm nguồn nhân lực, chỉ cần một chủ thể quản lý đối với một khách thể,… mà mô hình thứ hai không đáp ứng được. Điều này đặc biệt thể hiện rõ hơn khi người lao động bị thất nghiệp, họ chỉ cần trình báo trực tiếp với cơ quan BHXH cấp địa phương quản lý là có thể nhận được các quyền lợi cho phép, tránh tình trạng lại vừa phải trình báo tại cơ quan lao động, rồi lại phải liên hệ với cơ quan BHXH như mô hình hiện nay mới nhận được tiền trợ cấp…

Sử dụng quỹ BHTN:


Quỹ BHTN được xem như là quỹ thành phần, cấu thành nên quỹ BHXH chung. Quỹ BHTN độc lập với ngân sách nhà nước, được nhà nước bảo hộ. Trong trường hợp quỹ BHTN không đáp ứng được yêu cầu chi trả thì được điều tiết từ các quỹ thành phần khác nhằm kịp thời chi trả chế độ BHTN.


- Hỗ trợ học nghề: Các cơ sở dạy nghề trực thuộc ngành Lao động hoặc do ngành Lao động quản lý, vì thế thuận tiện trong việc đào tạo nghề cho lao động thất nghiệp, tuy nhiên như thế sẽ thiếu khách quan, thiếu dân chủ, không minh bạch,... dễ dẫn đến tiêu cực. Nếu lựa chọn mô hình thứ nhất, khi có phát sinh quan hệ về đào tạo nghề thì cơ quan BHXH giới thiệu người thất nghiệp sang các cơ sở dạy nghề tương thích để đào tạo nghề, đồng thời trả kinh phí đào tạo cho các cơ sở dạy nghề.

- Hỗ trợ tìm việc làm: Lao động thất nghiệp được cơ quan BHXH tư vấn miễn phí để tìm việc làm mới. Cơ quan BHXH ký kết hợp đồng với các Trung tâm giới thiệu việc làm (như ký hợp đồng với các Bênh viên trong chế độ bảo hiểm y tế) để các trung tâm này thường xuyên cung cấp thông tin về lao động việc làm, cơ quan BHXH trả kinh phí cho các Trung tâm giới thiệu việc làm.

Cơ quan BHXH cần xây dựng mối quan hệ với các sở, ban, ngành: Lao động, Kế hoạch, Ban quản lý các khu công nghiệp, Liên đoàn lao động,... để nắm bắt nhu cầu lao động, việc làm miễn phí.

Thông qua mạng lưới các doanh nghiệp thường xuyên có quan hệ với cơ quan BHXH để tiếp nhận thông tin về việc làm. Theo lẽ tự nhiên, các doanh nghiệp đều có biến động về lao động. Đây cũng được xem là kênh cung cấp thông tin việc làm quan trọng.

- Đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp: Đây là là một trong những nhiệm vụ ngành BHXH đang thực hiện.

- Chi phí quản lý: Bổ sung thêm nhiệm vụ thực hiện chính sách BHTN, Ngành Bảo hiểm xã hội không tiêu tốn thêm nhiều kinh phí vì đă sẵn có cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực,... vì thế nguồn tiền tiết kiệm được từ chi tiêu phục vụ quản lý được bổ sung tăng trưởng quỹ BHTN, đảm bảo mức chi cho các chế độ BHTN ngày càng tăng cao. Mô hình thứ hai không có được tính ưu việt này.

Hồ sơ tham gia BHTN, hồ sơ hưởng BHTN:


Nếu lựa chọn mô hình thứ nhất thì những thủ tục có thể bỏ các loại sau:


- Sổ lao động của người lao động.


- Bản sao quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động của người sử dụng lao động.

- Giấy phép sử dụng lao động hoặc giấy chứng nhận đăng ký sử dụng lao động do cơ quan quản lý lao động địa phương cấp đối với người sử dụng lao động.

Mô hình thứ hai không có điều kiện để kiểm nghiệm cơ sở dữ liệu này.


Quản lý nhà nước về BHTN:


Theo quy định thì cơ quan quản lý nhà nước về BHTN là ngành Lao động, vì thế ngành Lao động không thể là ngành vừa quản lý Nhà nước, vừa thanh tra về BHTN, đồng thời là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách BHTN.

Bộ máy thực hiện chính sách BHTN:


Ngành BBHXH với đội ngũ cán bộ, công chức viên chức hùng hậu được bố trí làm việc tại cơ quan BHXH từ Trung ương đến tận quận, huyện, thị xă hoàn toàn có thể đảm nhận thêm nhiệm vụ thực hiện chính sách BHTN mà chỉ cần bổ sung thêm rất ít nguồn nhân lực.

Lựa chọn mô hình thứ hai thì lại chồng chéo, khó phân định nhiệm vụ. Mô hình lựa chọn phải là mô hình đồng thời đáp ứng được các yêu cầu:

- Đảm bảo thực hiện tốt chế độ chính sách BHTN, đảm bảo đầy đủ, kịp thời các quyền lợi hợp pháp cho người lao động.

- Đảm bảo tính hiệu quả cả về kinh tế - xã hội cho từng địa phương và trên phạm vi cả nước khi triển khai thực hiện chính sách BHTN.

Qua nội dung phân tích trên, nhận thấy mô hình thứ nhất là tối ưu, phù hợp với quy mô chính sách BHTN hiện hành và hệ thống tổ chức các chính sách BHXH hiện hành. Hệ thống BHXH hiện nay gánh vác thêm chức năng thực hiện chức năng tổ chức thực hiện chính sách BHTN về cơ bản chỉ là tăng thêm nhiệm vụ trên cơ sở bổ sung, bố trí thêm việc, phân công chuyên trách hệ thống bộ máy hoạt động mang tính chuyên nghiệp hiện có. Đồng thời bộ máy hiện có mở rộng quan hệ với các trung tâm giới thiệu việc làm, các cơ sở dạy


nghề trên cơ sở hợp đồng phối hợp công việc và chi trả đầy đủ theo quy định của Nhà nước. Chắc chắn mô hình này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho việc ban hành một chính sách mang nội dung mới của bảo hiểm xã hội là BHTN.


Kết Luận


Chính sách BHTN là một chính sách cơ bản của chính sách thị trường lao động và đã tổ chức triển khai thực hiện ở nước ta được gần hai năm. Chính sách BHTN không chỉ đơn thuần là hoạt động thu, chi trả trợ cấp thất nghiệp mà mục tiêu lớn hơn là các giải pháp ngăn ngừa tình trạng thất nghiệp, đưa người lao động bị thất nghiệp quay trở lại thị trường lao động, thông qua hoạt động tư vấn, đào tạo nghề và giới thiệu việc làm. Tuy thời gian thực hiện chưa được nhiều nhưng chính sách BHTN đã là chỗ dựa tin cậy cho những người lao động tham gia BHTN bị mất việc làm được bù đắp một phần thu nhập, được chăm sóc y tế trong thời gian thất nghiệp và đặc biệt được tạo mọi điều kiện thuận lợi học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, được tư vấn giới thiệu việc làm miễn phí. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, việc triển khai thực hiện chính sách BHTN cũng đã bộc lộ những điểm còn tồn tại, hạn chế, bất cập cả về chính sách và trong tổ chức thực hiện chính sách BHTN cần phải được xem xét, giải quyết một cách nghiêm túc. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về thất nghiệp, chính sách BHTN và thực trạng chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm, thôi việc theo Bộ luật Lao động, chính sách hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chính sách BHTN đang thực hiện của nước ta trong thời gian qua, luận văn đã có những đóng góp dưới đây:

1. Luận văn đã làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thất nghiệp, nguyên nhân, hậu quả của thất nghiệp, BHTN, chính sách BHTN, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và việc thực hiện chính sách BHTN là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường như Việt Nam chúng ta.

2. Trên cơ sở phân tích thực trạng lao động, việc làm và thất nghiệp của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là thực trạng chính sách hỗ trợ người lao động khi bị mất việc làm, thôi việc trong những năm qua tác giả đã có những đánh giá mặt được, tồn tại của các chính sách và các chính sách này không mang tính xã hội. Vì vậy, phải có một chính sách chung cho tất cả mọi người lao động và có sự chia sẻ trách nhiệm của các bên tham gia đó là chính sách BHTN.


3. Trên cơ sở phân tích chính sách và thực trạng tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHTN trong gần hai năm qua, luận văn đã đưa ra những quan điểm hoàn thiện chính sách, đặc biệt là đã có sự so sánh giữa hai mô hình là mô hình liên kết giữa hai ngành Lao động Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam hiện nay đang thực hiện và mô hình BHXH Việt Nam thực hiện, đưa ra mô hình tối ưu tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHTN ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chính sách BHTN mới được thực hiện ở Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện thị trường lao động của nước ta chưa hoàn thiện, lại do hai ngành cùng tổ chức thực hiện, vì vậy đây là một vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm. Dù đã có sự cố gắng nỗ lực của tác giả nhưng không thể không tránh khỏi những hạn chế và tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp hoàn thiện luận văn để góp phần vào việc thực hiện thành công chính sách BHTN ở nước ta.


danh mục tài liệu tham khảo


1. Bùi Quỳnh Anh (2008), "Nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành ở Việt Nam", Hội thảo khoa học: Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức.

2. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 - Các kết quả chủ yếu, Hà Nội.

3. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2007), Luật Bảo hiểm thất nghiệp của Cộng hũa Liờn bang Đức năm 1969, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.

4. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2009), Công văn số 1615/BHXH-CSXH ngày 2/6 hướng dẫn thực hiện thu, chi bảo hiểm thất nghiệp, Hà Nội.

5. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2009), Công văn số 2035/BHXH-CSXH ngày 26/6 về sửa đổi, bổ sung Công văn số 1615/BHXH-CSXH ngày 2/6/2009, Hà Nội.

6. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2009), Báo cáo của Trung Quốc trong Hội nghị cấp cao về an sinh xó hội các nước Đông Nam Á + Trung Quốc tổ chức tại Trung Sơn - Trung Quốc, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.

7. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2009), Báo cáo của đoàn Bảo hiểm xó hội Việt Nam đi làm việc và khảo sát về bảo hiểm thất nghiệp tại Thái Lan, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.

8. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2009), Báo cáo của đoàn Bảo hiểm xó hội Việt Nam đi làm việc và khảo sát về bảo hiểm thất nghiệp tại Hàn Quốc, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.

9. Bảo hiểm xó hội Việt Nam (2010), Công văn số 116/BHXH-CSXH ngày 15/01 về sửa đổi bổ sung Công văn số 1615/BHXH-CSXH ngày ngày 2/6/2009, Hà Nội.

10. Bảo hiểm xã hội - Những điều cần thiết (2001), Nxb Thống kê, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/06/2023