Những Hạn Chế Trong Đóng Góp Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


Hệ thống quản lý của các NHTM Việt Nam còn lạc hậu, mô hình tổ chức chưa hợp lý, thiếu các quy trình quản lý mang tính hiện đại như quy trình quản lý rủi ro, quy trình xử lý thông tin, các chuẩn mực và xếp hạng tín dụng, ...

Đội ngũ nhân viên của các NHTM vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp trong phong cách phục vụ khách hàng và chưa được tiếp cận với phương thức bán hàng hiện đại.

2.3.3.2 Những hạn chế trong đóng góp của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

đối với nền kinh tế do chưa phát huy được hết năng lực cạnh tranh của mình


(i) Hiệu quả cung ứng vốn chưa cao


Mặc dù dư nợ tín dụng từ các NHTM cho nền kinh tế luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn cung ứng cho nền kinh tế nhưng trong thời gian gần đây, danh mục vốn cung ứng chưa thực sự đem lại hiệu quả lâu dài.

Để đạt chỉ tiêu về doanh số, chiếm lĩnh thị phần, nhiều ngân hàng, nhất là các NHTM CP, đã nghiêng về cho vay các mảng thương mại dịch vụ như đầu tư kinh doanh bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, … lớn hơn rất nhiều so với cho vay phục vụ sản xuất. Thậm chí để cạnh tranh nhau, các ngân hàng còn đưa ra những điều kiện tín dụng quá dễ dãi đối với khách hàng trên cơ sở tài sản thế chấp cũng chính là bất động sản hoặc chứng khoán được đầu tư mà không tuân theo một hệ thống quản lý danh mục đầu tư hiệu quả. Tình trạng sử dụng vốn không cân đối về danh mục đầu tư này của các NHTM trong nước sẽ đẫn đến những thiệt hại cho nền kinh tế như:

- Rủi ro cho ngân hàng khi thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản bất ổn, ngược lại nguồn vốn từ ngân hàng đổ vào các thị trường này tăng lên một cách bất thường cũng làm cho 2 thị trường này không phản ánh đúng cung cầu.

- Rủi ro cho nhà đầu tư vay tiền ngân hàng khi tiền ngân hàng được đưa ra quá dễ dãi thì việc sử dụng vốn sẽ ít chú trọng đến hiệu quả, ngoài ra còn làm phát sinh hiện tượng đầu cơ.

- Vì nguồn vốn huy động của ngân hàng là hạn chế, những nhà đầu cơ vào danh mục rủi ro như bất động sản và chứng khoán dễ dàng chấp nhận mức lãi suất cao hơn và vay được vốn dễ hơn, trong khi các doanh nghiệp cần vốn cho sản xuất vừa phải tính toán kỹ về hiệu quả của đồng vốn, lại không có tài sản thế chấp nên sẽ


khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng hơn. Chính sự bất hợp lý này sẽ là thiệt thòi cho nền kinh tế khi mà động lực phát triển chính của nền kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh lại bị hạn chế về nguồn vốn cung ứng từ chính các ngân hàng.

(ii) Nền kinh tế chưa có được những sản phẩm dịch vụ ngân hàng tốt nhất


Mặc dù đã chú ý đến nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi những sản phẩm chất lượng cao hơn nhưng đến nay, các NHTM trong nước hầu như chưa chú trọng đến sự phát triển theo chiều sâu mà vẫn còn tập trung vào phát triển theo chiều rộng. Do vậy, các NHTM trong nước có mở thêm mạng lưới, đưa thêm các dịch vụ ra thị trường nhưng thực tế các dịch vụ này vẫn chủ yếu là các dịch vụ truyền thống như tiền gửi, cho vay, thanh toán xuất nhập khẩu, … được đa dạng hóa và có cộng thêm yếu tố công nghệ. Các sản phẩm cao cấp hơn như các dịch vụ về quyền chọn, hợp đồng tương lai vẫn chỉ được xem như các dịch vụ phụ còn các dịch vụ như môi giới tiền tệ, tư vấn đầu tư, … thì hầu như chưa được các ngân hàng đưa ra.

(iii) Chưa hình thành được một hệ thống ngân hàng bền vững, hiệu quả


Các NHTM trong nước hiện nay đã chú ý nâng cao năng lực cạnh tranh và đạt được một số kết quả nhất định nhưng chưa thực sự chú trọng đầu tư phát triển bền vững lâu dài mà còn thiên về chiều rộng để đạt những lợi ích trước mắt. Điều này được thể hiện qua việc các NHTM trong nước chưa thực sự quan tâm đến tính ổn định trong năng lực tài chính, tính hiệu quả của danh mục đầu tư, chưa chú trọng phát triển nguồn nhân lực một cách tương xứng, … Những vấn đề này khiến cho hệ thống NHTM Việt Nam tuy có những thành tựu trong thời gian qua như tăng lợi nhuận, mở rộng thị phần nhưng chưa thực sự là phát triển bền vững, và có khả năng sẽ gặp những khó khăn khi nền kinh tế diễn biến không thuận lợi.

Trong khi đó, trong quá trình phát triển và đặc biệt là quá trình mở cửa nền kinh tế ngày càng sâu rộng, nền kinh tế cần rất nhiều sự hỗ trợ từ hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng có mạnh, có vững chắc thì mới tạo điều kiện cho các ngành nghề kinh tế phát triển và cạnh tranh với thế giới. Do vậy, các NHTM hiện nay cần phải tăng cường năng lực cạnh tranh nhiều hơn nữa, đặc biệt là về chiều sâu để góp phần


tạo nên một hệ thống tài chính ổn định, là cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển kinh tế.


2.3.4 Một số nguyên nhân của những tồn tại về năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

2.3.4.1 Nguyên nhân từ phía môi trường vĩ mô và hệ thống luật pháp


(i) Hệ thống luật pháp trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng còn thiếu những quy định quan trọng tạo điều kiện cho ngành phát triển phù hợp với các chuẩn mực quốc tế như: các quy định mang tính tổng thể cho các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và ngân hàng điện tử, các quy định về minh bạch thông tin, tạo lập cơ chế bảo đảm thực thi để triển khai các dịch vụ ngân hàng vào thực tiễn (các quy định về thể chế, nghiệp vụ ngân hàng điện tử, nghiệp vụ phái sinh …), các quy định về phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng qua biên giới cũng chưa được ban hành, bao gồm sử dụng dịch vụ ở nước ngoài và hiện diện thương mại, vấn đề này làm chậm khả năng phát triển sản phẩm dịch vụ của các NHTM.

(ii) Tình trạng sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế còn cao, vấn đề này làm hạn chế sự phát triển các dịch vụ ngân hàng như huy động vốn, thanh toán không dùng tiền mặt và hạn chế khả năng kiểm soát hoạt động của các công ty khi cho vay.

(iii) Chưa có những quy định chặt chẽ về minh bạch thông tin trong hoạt động kinh doanh: vấn đề thiếu thông tin khiến cho các NHTM khó xác định rủi ro của những lĩnh vực cần mở rộng hoạt động, việc cho vay đối với các doanh nghiệp không có báo cáo tài chính chính xác cũng trở nên khó khăn và mất nhiều chi phí hơn. Tuy nhiên bản thân các NHTM cũng không hoàn toàn minh bạch về thông tin, những số liệu về nợ xấu, tỷ lệ an toàn trong hoạt đông ngân hàng cũng chưa được kiểm tra một cách chặt chẽ.

(iv) Vấn đề đổi mới NHTM NN diễn ra còn chậm: việc thực hiện cổ phần hóa các NHTM NN chưa được tiến hành một cách triệt để, thời hạn cổ phần hóa liên tục bị dời lại, cho đến nay cũng chỉ có một mình Vietcombank đã phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng kịp trong năm 2007, các NHTM NN khác vẫn đang trong giai đoạn tìm nhà tư vấn. Hơn nữa, sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình cổ phần hóa NHTM NN còn quá sâu, hầu hết quyết định có liên quan đến việc cổ phần hoá này


đều phải xin ý kiến Chính Phủ. Quan hệ quá chặt chẽ với Chính Phủ khiến cho những đổi mới của các NHTM NN bị chậm lại, làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này.

(v) Sự điều hành các thị trường có liên quan đến ngân hàng như thị trường chứng khoán, bất động sản của Nhà nước vẫn còn nhiều bất cập: trong thời gian gần đây, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản có những dấu hiệu tăng hoặc giảm giá với biên độ lớn, buộc Nhà nước phải liên tục soạn thảo những văn bản, các quy định để điều tiết thị trường. Những sự can thiệp này cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng vì tỷ trọng danh mục các sản phẩm có liên quan đến hai thị trường này của ngân hàng là khá lớn và có tác động đến các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.

2.3.4.2 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng thương mại


(i) Sự thành lập ồ ạt các NHTM trong những năm gần đây thông qua việc các tập đoàn, tổng công ty lớn mua lại các NHTM CP nông thôn và tăng vốn để xin được giấy phép nâng lên thành NHTM CP đô thị chủ yếu là để phục vụ lợi ích của các tập đoàn, tổng công ty này. Sự thành lập ồ ạt này dẫn đến các NHTM ra đời với thị phần hạn chế, chủ yếu là trong nội bộ ngành và làm chia cắt thị phần chung của hệ thống ngân hàng. Điều này đi ngược lại với xu thế chung của ngành ngân hàng đang cần những ngân hàng nội có quy mô lớn và đã sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh với các NHNNg.

(ii) Một số NHTM thiếu sự chuẩn bị cho cạnh tranh: mặc dù phương án Việt Nam gia nhập WTO đã công bố nhiều năm nhưng các ngân hàng này vẫn có tâm lý ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước, dẫn đến sự thiếu năng động trong hoạt động kinh doanh. Điều này được thể hiện qua nhiều góc độ như: sự thiếu chuẩn bị về nhân lực phần nào làm hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới, thị phần; cơ cấu dịch vụ vẫn thiên về tín dụng; khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng còn thấp.

(iii) Các NHTM vẫn còn ít chú ý đến khả năng phát triển nguồn nhân lực: mặc dù trong các báo cáo của các NHTM, số lượng nhân viên được gửi đi đào tạo rất lớn nhưng trên thực tế việc đào tạo này mang tính đại trà và chất lượng không cao. Đào tạo thực tiễn và bài bản với những chuẩn mực và quy trình cụ thể là rất hiếm tại các


NHTM. Điều này dẫn đến sự thiếu chuyên nghiệp của các NHTM trong nước so với các NHTM nước ngoài. Cơ cấu tổ chức quản lý của các NHTM cũng chưa hợp lý, khả năng quản lý chưa cao và nhất là thiếu kinh nghiệm quản trị rủi ro.

(iv) Các NHTM chưa thực sự chú trọng đến việc phát triển thương hiệu dưới góc độ chất lượng dịch vụ mà còn thiên về tính hình thức của thương hiệu. Việc xây dựng thương hiệu cũng chưa chú ý đến yếu tố tạo dựng lòng tin và sự trung thành của khách hàng với ngân hàng.

2.3.4.3 Nguyên nhân do thiếu sự liên kết giữa các Ngân hàng thương mại


Mặc dù xu thế chung của ngành ngân hàng trên thế giới hiện nay là sáp nhập, hợp nhất để mở rộng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng giải pháp này hầu như rất ít được các NHTM trong nước quan tâm.

Có thể khẳng định rằng các vụ sáp nhập luôn tạo ra những lợi ích đáng kể cho các ngân hàng, khách hàng và đối tác kinh doanh, cụ thể là:

Mở rộng: Sáp nhập sẽ giúp mở rộng các dịch vụ và loại hình kinh doanh cho bất kỳ cấp độ nào của ngân hàng. Những mặt mạnh của các bên giờ đây sẽ hợp chung thành những thế mạnh của ngân hàng hợp nhất.

Chuyên sâu: Sự kết hợp của công nghệ và chuyên môn giữa các ngân hàng sẽ tạo ra những tập đoàn mới có tính chuyên sâu, cung cấp những sản phẩm dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn, hiện đại hơn và tiên tiến hơn.

Vươn tới toàn cầu: Thông qua sáp nhập, các ngân hàng tận dụng được lợi thế thị trường và kênh phân phối của nhau, qua đó hệ thống bán hàng và dịch vụ sẽ được mở rộng, các kênh phân phối được nối dài tới hàng triệu khách hàng trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, việc liên kết các NHTM tại Việt Nam hiện nay còn hết sức lỏng lẻo và chỉ dừng ở mức độ liên kết hoạt động đơn thuần chứ chưa tiến đến những mức cao hơn như hợp nhất, sáp nhập. Điều này thể hiện qua:

Các NHTM Việt Nam hiện nay mới chỉ liên kết trong từng mảng hoạt động nghiệp vụ như liên minh thẻ ATM và đồng tài trợ tín dụng:

Các ngân hàng nhỏ thường thích liên kết vì thiếu vốn. Việc liên kết qua ATM sẽ giúp các ngân hàng này thu hút khách hàng với bộ sản phẩm đầy đủ mà không phải bỏ ra


chí phí đầu tư ban đầu lớn; việc đồng tài trợ dự án cũng vậy, giúp các ngân hàng nhỏ giữ khách hàng lớn khi ngân hàng đó bị hạn chế về vốn để cho vay toàn bộ dự án, đồng thời chia sẻ được rủi ro và học hỏi kinh nghiệm quản trị thẩm định dự án, quản trị rủi ro từ các ngân hàng liên kết. Bên cạnh đó, các bên còn có thể có lợi từ việc chia sẻ thông tin. Quan trọng nhất là các ngân hàng nhỏ không bị mất đi quyền tự chủ trong các quyết định kinh doanh của mình trong khi nếu liên kết dưới hình thức tham gia hợp nhất, sáp nhập thì vị thế của các ngân hàng nhỏ trong đàm phán sẽ rất hạn chế và họ sẽ không giữ được tiếng nói riêng của mình trong tổ chức mới.

Đối với các ngân hàng có quy mô lớn hơn, dường như việc liên kết chưa là nhu cầu thiết yếu vì bản thân họ đã có lượng khách hàng lớn và thương hiệu trong tâm trí khách hàng. Tuy nhiên thực tế việc các ngân hàng lớn tham gia vào liên kết vẫn là một hiện tượng phổ biến, lý do thường được nhắc đến nhiều nhất là để chia sẻ chi phí đầu tư và vận hành máy móc thiết bị. Việc trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng nhỏ cũng là một cách đầu tư phân tán rủi ro và nâng cao hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng.

Tuy nhiên hoạt động hợp nhất, sáp nhập các NHTM tại Việt Nam lại hầu như không xảy ra do các nguyên nhân chính sau:

Đầu tiên cần nói về quan điểm của những nhà quản trị. Dường như những nhà quản trị Việt Nam rất quan tâm đến vị trí và quyền lợi của họ trong tổ chức và xu hướng chung là thường nhắm đến những chức vụ cao nhất như Chủ tịch Hội đồng quản trị hay Tổng giám đốc. Quan điểm làm trưởng một tổ chức nhỏ vẫn thoải mái hơn so với làm phó một tổ chức lớn khá phổ biến trong tâm lý người Việt nói chung và trong tâm lý những nhà quản trị ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, họ có thể ưu tiên liên kết từng mảng hoạt động hơn là sáp nhập. Điều này dường như càng phù hợp với các tổ chức tài chính nhỏ vì chắc chắn vị thế của họ trong tổ chức mới sẽ rất hạn chế.

Bên cạnh đó mỗi ngân hàng đều có chiến lược phát triển và văn hóa doanh nghiệp riêng. Việc hòa nhập lại thành một tổ chức mới cũng đồng nghĩa với việc chỉ còn duy trì một chiến lược phát triển thống nhất và một văn hóa doanh nghiệp thống nhất. Các yếu tố đó của các tổ chức còn lại xem như bị hòa tan, đây là một điều mà các nhà quản trị ngân hàng không hề mong muốn sau bao năm gây dựng ngân hàng của mình.


Hơn nữa việc sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng Việt Nam thời gian qua khá im ắng có thể do ảnh hưởng từ những vụ sáp nhập, hợp nhất trong quá khứ. Khi đó những NHTM tham gia hợp nhất, sáp nhập (chính xác hơn là bị hợp nhất, sáp nhập) là những ngân hàng hoạt động kém hiệu quả và đang đứng trên bờ vực phá sản. Do vậy việc sáp nhập, hợp nhất của các ngân hàng hiện nay có thể dễ bị hiểu lầm là hoạt động của các ngân hàng đó đang gặp nguy cơ khó khăn. Những thông tin như vậy ở Việt Nam hoàn toàn không có lợi cho các ngân hàng.

Bảng 2.10: Các NHTM Việt Nam đã sáp nhập để chấn chỉnh hoạt động trong giai

đoạn 1998-2001


Tên ngân hàng cần chấn chỉnh hoạt động

Biện pháp xử lý

NHTM CP Đại Nam Sáp nhập vào NHTM CP Phương Nam NHTM CP Châu Phú Sáp nhập vào NHTM CP Phương Nam NHTM CP Thạnh Thắng Sáp nhập vào NHTM CP Sài Gòn Thương Tín NHTM CP Quảng Ninh Sáp nhập vào NHTM CP Nhà Hà Nội

NHTM CP Nông thôn Hải Phòng Sáp nhập vào NHTM CP Kỹ Thương

NHTM CP Tứ giác Long Xuyên NHTM CP Đông Á mua lại một phần tài sản có


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


Tiếp đến, việc thiếu văn bản hướng dẫn của Nhà Nước về hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng cũng gián tiếp trở thành một lực cản nhất định đối với việc sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. Bởi lẽ nếu có tổ chức nào muốn thực hiện việc hợp nhất, sáp nhập đi chăng nữa họ cũng chưa biết phải bắt đầu từ đâu và cần làm những gì để đảm bảo quyền lợi các bên, quyền lợi của khách hàng và sự ổn định chung của hệ thống ngân hàng.

Đây là những vấn đề mà ngành ngân hàng Việt Nam cần thay đổi để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.



KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


trong chương 1, chương 2 đã đi vào

phân tích, đánh giá thực trạng về năng lực cạnh


NHTM Việt Nam đã có sự chủ động


nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và từ đó


lực cạnh tranh của các NHTM Việt N


am vẫn còn là những sự chuẩn bị để mở rộng về

chiều ngang, với mục tiêu giành thị

phần trước khi Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị

trường cho các NHNNg theo cam k

ết gia nhập WTO. Mặc dù đây là một hướng đi

đúng đắn của các NHTM Việt Nam

trong giai đoạn đầu hội nhập, tuy nhiên về lâu

dài, các NHTM Việt Nam cần phải t

ăng cường về chiều sâu, củng cố chất lượng hoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam góp phần phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập - 12

Từ những cơ sở lý thuyết về các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM tranh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Nhìn chung, các đã đem lại những tác động tích cực đến nền kinh tế. Tuy nhiên, việc nâng cao năng


động của mình thì mới có đủ khả năng cạnh tranh với sự thâm nhập ngày càng nhiều của các NHNNg trên thị trường Việt Nam và đóng góp được nhiều hơn cho nền kinh tế.

Xem tất cả 147 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí