Những Tác Động Của Chế Độ Đãi Ngộ Đối Với Quân Đội Của Triều Nguyễn Giai Đoạn 1802-1884


Tiềm lực kinh tế của đất nước cũng tác động tới chế độ đãi ngộ của triều đình dành cho quân đội. Khi đất nước bình yên và phát triển thì việc thưởng ưu hậu cho những võ quan và binh sĩ được thực hiện thường xuyên. Điều này có thể thấy rõ qua những sự kiện ban thưởng cho võ quan có công trong các hoạt động quân sự hay việc ân thưởng cho võ quan và binh lính trong những dịp lễ tết hay những dịp đại khánh. Thời trị vì của vua Minh Mệnh được xem là thời kỳ thịnh nhất của vương triều Nguyễn nên việc ban thưởng này diễn ra thường xuyên và mức ban thưởng lớn. Võ quan lập được chiến công ngoài được thăng chức tước còn được ban thưởng tiền, vải, ngọc. Trong những dịp tết không chỉ quan cao cấp mà quan thấp cũng được ban thưởng yến tiệc. Nhưng sang thời Tự Đức, kinh tế khó khăn, Pháp xâm lược nên việc thưởng cho binh lính chủ yếu là cho những võ quan và binh lính tham gia trận mạc và bệnh binh và tử sĩ. Cũng như vậy, việc điều chỉnh giảm lương đối với quan trong triều trong đó có một lực lượng không nhỏ là võ quan dưới thời Tự Đức phản ánh sự khó khăn, suy giảm về tiềm lực kinh tế của vương triều. Nói như chỉ dụ của nhà vua khi phải điều chỉnh giảm định mức lương cho binh lính, đây chỉ là chính sách tạm thời. Điều đó cho thấy đó là giải pháp cực chẳng đã, nhất là trong bối cảnh đất nước đang chống Pháp, việc giảm lương của võ quan không khỏi ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.

Ngoài ra, thực hiện chia lại ruộng quân điền cho binh lính năm 1840 hay ban thưởng cho binh lính đi khai hoang phán ánh một thực tế là diện tích ruộng đất công bị thu hẹp ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu của triều đình và ngân khố quốc gia. Vì vậy, triều đình phải thực hiện những biện pháp để mở rộng diện tích ruộng đất công mà chính sách đãi ngộ cho võ quan và binh lính liên quan trực tiếp tới những biện pháp kinh tế đó.

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 phản ánh tình hình xã hội thế kỷ XIX. Những chính sách củng cố tổ chức và mở rộng quy mô quân đội cùng với việc quan tâm của nhà nước đối với chính sách lương bổng và trợ cấp, phụ cấp và khen thưởng cho quân đội triều Nguyễn là bức tranh phản ánh hai mặt vừa thể hiện vai trò của quân đội đối với nền chính trị của đất nước nhưng đồng thời thể hiện nhu cầu của giai cấp cầm quyền muốn giữ sự cai trị của mình trong bối cảnh dưới triều Nguyễn nổ ra rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình. Đặc điểm của các cuộc nổi dậy này diễn ra ngay từ khi vương triều mới thành lập và kéo dài liên tục trong thế


kỷ XIX trên tất cả các vùng miền của đất nước. Số lượng các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới triều Nguyễn nhiều hơn tất cả các cuộc nổi dậy của nhân dân chống triều đình của các thời kỳ trước.

Việc ban thưởng của các triều vua từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức cho binh lính đi dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân, của binh lính và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi cho thấy tình hình xã hội bất ổn. Chính sách khen thưởng cho quan đi mộ binh phản ánh tình trạng lính trốn quân ngũ đồng thời phản ánh tình trạng dân lưu tán khiến cho việc lấy quân lính ở các địa phương khó khăn. Điều đó lý giải tại sao ngay từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã ban hành chính sách lương bổng đối với võ quan và binh lính ở Bắc Thành trong bối cảnh vương triều còn nhiều khó khăn sau một thời gian dài chiến tranh tàn phá. Thời kỳ ổn định và phát triển nhất của triều Nguyễn là dưới thời vua Minh Mệnh cũng là thời kỳ nổ ra nhiều cuộc nổi dậy của nông dân với quy mô lớn và kéo dài mà triều đình phải rất vất vả nhiều lần đem quân đi đánh dẹp mới có thể dập tắt như khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Nông Văn Văn và Lê Văn Khôi. Sự tăng lương của nhà nước cho võ quan hay sự ban thưởng ưu hậu của triều đình cho quan binh thời kỳ này cũng phản ánh tình hình nội trị bất ổn của đất nước.

Trên đây là những tác động của bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị kinh tế văn hóa đối với chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của triều Nguyễn. Ngược lại, chính chế độ lương bổng và trợ cấp cho quân đội có tác dụng lớn nhất đến sức mạnh của quân đội. Sự lớn mạnh của quân đội sẽ hưởng trực tiếp tới nền chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, chính sách lương bổng và trợ cấp cho quân đội đúng, phù hợp sẽ tác động trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của nền chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta thế kỷ XIX dưới sự cai của vương triều Nguyễn.

5.3.Những tác động của chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884

5.3.1. Tác động tích cực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

Đối với xã hội, dưới triều Nguyễn, binh lính chiếm một số lượng không nhỏ trong xã hội. Chế độ đại ngộ của nhà nước đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho quân đội cũng chính là giúp cho một bộ phận trong xã hội được đảm bảo về cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ với võ quan trận vong, trận thương và chế độ ưu cấp đối với gia đình bao gồm cha mẹ và vợ con của binh lính (đặc biệt là gia đình võ quan) - những người thiệt thòi trong chiến tranh phần nào động viên tinh thần của họ giúp họ ổn định cuộc sống. Trên một khía cạnh nào đó chính sách này


Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 - 19

giúp cho triều Nguyễn duy trì trật tự xã hội.

Đối với cá nhân võ quan và binh lính, chế độ đãi ngộ của nhà nước đã đảm bảo đời sống cho võ quan và binh lính, động viên họ yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Với định mức lương cho binh lính áp dụng từ năm Gia Long thứ nhất (1802) mỗi binh lính được cấp mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo và quần áo mỗi năm được cấp phát 2 lần. Đây cũng là định mức phổ biến của binh lính của các đời vua sau.

Dựa theo bài viết của tác giả Phan Huy Lê (2012) trong nghiên cứu về “Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn” trong đó tác giả dẫn theo lời của Piere Pasquier thì dưới triều Nguyễn, 1 phương bằng ½ hộc bằng 13 thăng, mà 1 thăng bằng 2,932 lít, và hộc bằng 76,226 lít. Tác giả cân 1 lít gạo mùa nặng 880gr, từ đó kết luận, 1 phương gạo bằng 38,113 lít gạo nặng khoảng 32,783 kg [147; 61]. Đồng thời theo Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965), trong định mức thuế năm Gia Long thứ 11 (1812) thì đương thời “một quan tiền cho ngang một phương gạo”. Quy ra mỗi người lính dưới triều Nguyễn mỗi tháng được cấp 67 kg gạo. Do đó, các tác giả Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965) nhận định: “Đó không phải là mức lương quá thấp đối với một người lính. Trái lại chứng tỏ chính sách ưu đãi binh lính của Gia Long” [164; 21]. Ngoài ra, binh lính còn được cấp ruộng theo chính sách lương điền và quân điền với định mức khác nhau tùy theo ngạch quân. (Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965). Với chế độ lương tháng (gồm tiền và gạo) và lương điền, mỗi người lính được nhận rõ ràng là mức lương thể hiện sự ưu ái của triều đình đối với binh lính, giúp họ có thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ như nhận định của tác giả Bùi Huy Khánh ( 2018) [141; 87].

Cũng như các triều đại trước, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan mà còn củng cố tư tưởng trung quân ái quốc theo tư tưởng của quan hệ vua tôi trong xã hội phong kiến. Đối với võ quan, mức lương tính theo định mức dưới triều Tự Đức đã được điều chỉnh giảm xuống nhiều so với triều vua Gia Long và Tự Đức khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra. Theo đó, cao nhất là Chánh nhất phẩm, mỗi năm được 340 quan tiền, 250 phương gạo, Tòng nhất phẩm mỗi năm được 250 quan tiền 210 phương gạo; Chánh Tòng cửu phẩm mỗi năm được 18 quan tiền 18 phương gạo. Theo tính toán của Phan Huy Lê, quy ra gạo mỗi năm Chánh Nhất phẩm là 19.341,97 kg gạo, Tòng Nhất phẩm là 15.080,18kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi năm được 1.180 kg gạo. Như vậy, mỗi tháng quan Chánh nhất phẩm nhận được 1.611kg gạo, Tòng Nhất


phẩm nhận được 1.256 kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi tháng nhận được 98,3 kg gạo. Với khoản lương quy ra gạo trên, rõ ràng mỗi tháng của quan cao cấp nhận được là một số lượng gạo lớn nhưng với quan phẩm hàm thấp, số lương nhận được cũng không phải quá cao. Tác giả Phạm Văn Sơn khi cho rằng:“ta thấy quan lại đời xưa sống quá thanh bạch mặc dù mức sinh hoạt thời đó không cao như ngày nay” [170; 330] có lẽ là muốn nói đến mức lương của võ quan phẩm hàm thấp. Tuy nhiên, ngoài lương võ quan còn nhận được những khoản thu nhập khác như thưởng công, thưởng nhân ngày lễ- tết. Trong giai đoạn có chiến tranh, những khó khăn của nền kinh tế nông nghiệp như lũ lụt, hạn hán chế độ lương của triều Nguyễn đối với võ quan có lẽ vẫn đảm bảo được đời sống cho họ.

Chính vì vậy, triều Nguyễn luôn có rất nhiều tướng tài giỏi nhiều lần cầm quân giúp vua đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở nhiều địa phương hay lãnh đạo quân đội triều đình kháng chiến chống thực dân Pháp ở các chiến trường như Tạ Quang Cự, Nguyễn Công Trứ hay Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương.

Nguyễn Công Trứ là một trường hợp điển hình trong số đó. Ông lập được công lớn dưới triều Minh Mệnh như đánh dẹp khởi nghĩa Phan Bá Vành khởi nghĩa Nông Văn Vân nhưng khi không lập được công trạng ở Trấn Tây, Nguyễn Công Trứ cũng các võ tướng bị bộ Hình đưa ra xét xử. Theo bản phụng thượng dụ của Nội các ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1: “Căn cứ vào tập tâu của bộ Hình đưa ra xét xử nguyên Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng, Tham tán Dương Văn Phong, Hiệp tán Cao Hữu Dực và Kinh lược Phạm Văn Điển, Tán lý Nguyễn Công Trứ làm việc không có công trạng…… Nguyễn Công Trứ truyền chiếu theo chức hàm hiện tại giáng 3 cấp lưu nhiệm” [34; tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1 (1841)]. Sau đó Nguyễn Công Trứ vẫn xin vua cầm quân đi đánh giặc. Ông cũng góp nhiều công lớn trong đánh quân Xiêm vào năm 1841- 1845. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng lúc này Nguyễn Công Trứ đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.

Chính những chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đã phần nào cố lòng trung thành đối với võ quan. Đây chính là bộ phận lãnh đạo, là lực lượng quan trọng nhất trong quân đội của triều Nguyễn.

5.3.2. Một số mặt trái của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội

Quân lính đông cùng với sự ưu ái của nhà nước đối với quân lính là gánh nặng cho nền kinh tế đất nước.

Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội là nhằm xây dựng một lực


lượng quân đội vững mạnh, đảm bảo cho sự ổn định chính trị của đất nước. So với các triều đại trước, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn có sự kế thừa và hoàn thiện hơn về chế định và biện pháp thực hiện. Tất nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những chính sách đối với quân đội của triều Nguyễn cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định.

Như đã trình bày ở chương 2, cùng với việc xây dựng một nhà nước có tính tập quyền chuyên chế, với cách tuyển quân 3 dân đinh lấy 1 lính, triều Nguyễn xây dựng cho mình bộ tổ chức quân đội đông đảo và tinh nhuệ. Song song với sự hoàn thiện cơ cấu tổ chức quân đội là chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo đời sống cho binh lính. Để đảm bảo lương thực duy trì số quân này thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước.

Thực tế, triều Nguyễn đã thực hiện việc chia ban nhằm giảm thiểu sự chi cấp của nhà nước cho quân đội nhưng chính sách này chỉ mang tính tức thời. Gánh nặng này bắt nguồn từ nhiều chính sách của nhà Nguyễn đối với quân đội, trong đó có chính sách lương điền được ban hành dưới thời vua Gia Long. Khi mới lập nước, với mục đích tịch thu ruộng đất của phe đối lập, quản lý diện tích công điền công thổ và đất bỏ hoang thì việc chia cấp ruộng công làm lương cho binh lính khá phù hợp.

Đến cuối thời Minh Mệnh, trước tình trạng khi ruộng đất công bị thu hẹp, ruộng đất tư ngày càng nhiều, triều đình phải tiến hành phép quân điền vào năm 1840 nhằm hạn chế sự mở rộng của ruộng đất tư. Chính sách ưu cấp cho binh lính dẫn đến hiện trạng ruộng lính chiếm đa số ruộng đất công. Điển hình là Bình Định, tỉnh đầu tiên vua Minh Mệnh cho tiến hành phép quân điền nhưng trước khi chia ruộng theo phép quân điền, nhà nước tiến hành chia ruộng cho binh lính theo định lệ lương điền ban hành năm 1836.

Theo định lệ này, mỗi binh lính sẽ được chia trung bình 8 sào ruộng. Trong khi đó theo tổng tính của tác giả Phan Phương Thảo trong Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định thì tổng diện tích đất công của tỉnh này năm 1839 khoảng

40.000 mẫu với số lính là 15.000 người. Do đó, ruộng lương điền của binh lính là

12.000 mẫu chiếm 33,3% (tức khoảng 1/3) tổng số ruộng công chưa kể ruộng khẩu phần mà binh lính được hưởng theo chính sách quân điền. Rõ ràng, việc duy trì mức lương điền cho một đội quân lớn trong khi đó ruộng công điền ngày càng bị thu hẹp đã trở thành gánh nặng đối với vương triều Nguyễn, gây ra gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước, cho ngân khố quốc gia.

Ngoài ra, dưới triều Nguyễn, tình trạng thiên tai như vỡ đê, lụt lội, hạn hán, bão


liên tiếp xảy ra. Theo thống kê trong Thực lục, từ năm 1803 đến năm 1873 triều Nguyễn có 49 lần bị thiên tai (Gia Long 12 lần, Minh Mệnh 16, Thiệu Trị 6 lần, Tự Đức 15 lần). Thiên tai ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như năng suất cây trồng. Trong bối cảnh đó, những nỗ lực chi dùng tài chính để nuôi một đội quân lớn chiếm một phần không nhỏ trong ngân khố của quốc gia. Mặc dù không có con số cụ thể về sự tổng thu chi của nhà nước cho quân đội trong một thời gian cụ thể tuy nhiên có thể lấy việc nhà nước cấp cho thành Trấn Tây làm ví dụ điển hình.

Thành Trấn được vua Minh Mệnh sát nhập vào lãnh thổ Đại Nam năm Minh Mệnh thứ 15 (1835) từ vùng đất của người Chân Lạp. Trong 6 năm (từ 1835 đến 1841), triều Nguyễn phải huy động một số quân lớn để đánh dẹp sự nổi dậy của người Chân Lạp và âm mưu chiếm trấn Tây của quân Xiêm. Theo bản tấu của bộ Binh năm Minh Mệnh thứ 19 (1840) “các loại biền binh cần để lại đồn thú ở thành gồm 6137 người” [8; tờ 91 quyển số 68 ngày 19 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)]. Để nuôi số quân này, triều Nguyễn không chỉ cấp tiền và lương thực từ ngân khố của nhà nước mà còn huy động các tỉnh thành khác cung cấp nuôi quân lính đi trấn giữ ở thành Trấn Tây. Tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), theo bản tâu về việc cung cấp cho quân thành Trấn Tây của bộ Hộ, số lượng chi được ghi lại như sau: “cung cấp cho thân biền binh đinh được sai phái đi công vụ, cùng việc sửa chữa kho tàng và việc cung cấp cho các viên biền đã mất về chôn cất ở quê quán. Cộng với các khoản khoản đãi vào các ngày lễ tiết, cầu mưa, cầu an... Tính gộp cả lại từ năm thứ 15 đến năm thứ 19 là thời gian 5 năm này đã chi quá 5049 quan 7 mạch tiền 167 phương gạo…... Căn cứ các khoản hiện khai kiểm tra từng khoản, nhưng tiến tính gộp hơn 5238 quan 170 phương gạo. Trừ số trước sau chi quá là 5238 quan tiền 170 phương gạo như vậy số tiền còn lại chỉ có 20 văn” [9; tờ số 62 quyển 77, ngày 5 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)].

Ngoài ra, các tỉnh thành như Định Tường, Vĩnh Long, Long Tường phải cung cấp tiền gạo cho thành Trấn Tây. Cụ thể, tỉnh Định Tường 2 vạn phương gạo” [10; tờ 16 quyển 63 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)] và 6000 phương gạo [11;

tờ 62 quyển 63 ngày 7 tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Long Tường “rút ngay trong kho của tỉnh mỗi loại tiền ấy là 200 mai, cử người chuyển đến thành nhận tích trữ để chuẩn bị chi cấp khi cần. Nay thành ấy gửi tư yêu cầu, việc thực khẩn thiết. Tỉnh thần đã rút ngay 306 mai loại lớn và 94 mai loại nhỏ ngân tiền Phi Long trong kho để đủ 400 mai, cử chiến thuyền chở ngay giao cho thành ấy nhận trữ để đủ chi cấp khi cần. Phụng chỉ: Đã biết. Lại truyền cho tỉnh Định Tường


rút ra 206 mai loại lớn, 94 mai loại lớn ngân tiền Phi Long hiện đang giữ [12; tờ 47 tập 63 ngày 19 tháng 3 năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Quảng Nam “tiền 1080

quan, gạo hơn 50 phương [13; tờ 330 quyển số 79 ngày 3 tháng 11 năm Minh Mệnh 21 (1840)]; tỉnh Vĩnh Long cũng nhiều lần phải vận chuyển gạo cung cấp cho thành Trấn Tây như bản tấu của quyền hộ Tổng đốc quan phòng Long Tường, Bố Chánh sứ Vĩnh Long Trương Văn Uyển: “Ngày 26 tháng Giêng năm nay nhận được tư văn của thành Trấn Tây trình bày: Trước đây thành ấy đã trù tính năm nay tư lấy 3 vạn phương lương thực của tỉnh thần chuyển giao cho tỉnh An Giang tích trữ để chuyển đến tỉnh ấy cho đủ dùng. Nay ngoài biên thành hạt ấy có biến, tư xin điều binh lính khá nhiều, đã tư cho tỉnh thần cử ngay chiến thuyền chuyển đến trước 1 hoặc 2 vạn phương lương thực giao cho tỉnh An Giang nhận tích trữ tiện chuyển đến thành để kịp cấp phát. Ngày 16 lại nhận được Thượng dụ do bộ Hộ cung lục: Truyền cho theo số chiến thuyền ở tỉnh có bao nhiêu chiếc nhanh chóng tu sửa cho vững chắc ngay, tất cả đều liệu số lính nhiều ít mà chở thêm quân nhu, pháo đạn, khí giới. Chúng thần đã xuất ngay thóc kho sức cho dân phu thuộc hạt xay thành gạo, phái cử chiến thuyền tiếp tục chuyển giao 2 nơi An Giang, Trấn Tây nhận tích trữ đủ để cấp phát. Số gạo cần dùng rất nhiều nên thuê dân xay. Cứ xay mỗi hộc thóc thành 1 phương gạo, xin nên chuẩn định thuê tiền công 20 văn, không giải quyết theo lệ trước” [14; tờ 34 quyển số 63 ngày 1 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)].

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn không thể ngăn chặn được tình trạng binh lính trốn khỏi quân ngũ

Tình trạng này càng tăng lên đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Mặc dù triều Nguyễn đã có những chính sách rất thiết thực nhằm đảm bảo đời cho võ quan và binh lính nhưng dưới triều Nguyễn, rất nhiều đơn vị quân (đặc biệt là các đơn vị quân ở địa phương) có số lượng binh lính ngày càng giảm sút. Một số đội vệ còn rất ít để duy trì số quân ngũ theo quy định buộc phải tuyển thêm hoặc tính cách giải thể hoặc sáp nhập. Biểu hiện này đã được phản ánh qua thống kê về số lượng quân qua các triều vua ở chương 2. Một số tài liệu châu bản cũng phản ánh tình trạng này. Ví dụ tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) Bộ binh tấu trình về việc tỉnh An Giang trình bày: “thuộc hạt lính trận lần lượt bỏ trốn và chết gồm 402 người, cho đốc thúc bổ sung đã đủ ngạch trong tuần tháng 6 năm nay có bổ sung lính thu bỏ trốn và chết ở Trấn Tây và Hà Tiên, mới tuyển gồm 65 người” [4; tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)].


Ngay cả lính ở Kinh, vệ Tuyển phong là lực lượng được triều Nguyễn ưu ái đến thời vua Tự Đức cũng thiếu hụt binh lính. Vua Tự Đức đã “ lấy làm lạ hỏi rằng: Lính vệ Tuyển phong, tiền lương đã hậu, tiến thân lại nhanh, so với các quân khác là hậu hơn cả, sao không có người ứng tuyển, để đến nỗi thiếu ngạch” [ 95;224]

Để khắc phục tình trạng này, triều Nguyễn đã ban hành quy định thưởng phạt đối với những người mộ binh tùy theo số lượng nhiều ít mà võ quan tuyển mộ được. Tình trạng này được phản ánh rất rõ trong Hội điển nhất là dưới triều vua Tự Đức.

Bên cạnh đó dưới triều Nguyễn còn xảy ra tình trạng lính trốn triều đình cho quân đi bắt và phạt nặng: “Những lính trốn tự mùa xuân trước lần lượt bắt được, đã vâng chỉ, hễ trốn lần đầu đóng gông 2 tháng, hết hạn lại đánh 100 côn đỏ, giao về hàng ngũ cũ, lại do bộ ghi lấy họ tên, sau còn trốn sẽ chém ; trốn 2 lần thì phát vãng đi đất mới Trấn Ninh làm binh. Các lính trốn năm nay thì xin tư ngay cho các quan địa phương tìm bắt. Những tên bắt được thì xin theo nghiêm chỉ năm ấy tâu rõ để trừng phạt.” [91; 11-12].

Ngoài ra, để giải quyết tình trạng thiếu binh lính trong quân ngũ, triều đình đã thực hiện biện pháp bắt lính. Đây là tình trạng chỉ diễn ra dưới triều Nguyễn. Trong Châu bản, biện pháp này không chỉ được nói tới dưới triều Tự Đức khi số lượng quân đội ngày càng giảm sút mà dưới thời Minh Mệnh, khi lực lượng quân đội đông nhất thì vẫn xảy ra tình trạng bắt lính để xung vào quân ngũ. Tờ 78 tập 79 ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 theo lời tấu của bộ Binh về việc tỉnh Vĩnh Long vâng minh dụ của vua thúc bắt quân hương dũng đủ số 3000 quân cho đến Trấn Tây sai phái [33; tờ 78 tập 79 ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 (1840)]. Quan lại địa phương thực hiện bắt đủ số binh lính mới được chi cấp lương. Ví dụ, Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 tấu về việc Tuần phủ Bình Định Lê Nguyên Trung làm theo yêu cầu của bộ Binh năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), cuối năm các Cai tổng, Phó tổng được giao nhiệm vụ thúc bắt lính cuối năm thống kê người nào đã đủ thì cho theo tháng tiếp tục cấp tiền, gạo. Năm Tự Đức thứ nhất (1848) các viên Cai tổng, Phó tổng thuộc các phủ huyện trong hạt trong năm ngoái thúc bắt lính đều thiếu, năm nay (1849) trong 3 tổng Xuân An, Trung Chính, Nhân Nghĩa , chỉ có tổng Trung Chính đã đủ, tổng Xuân An còn thiếu ít Cai tổng 2 tổng này nên chi cấp lương. Cai Nhân Nghĩa thiếu nhiều quân dừng cấp lương [55; Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)]

Ngoài ra, bên cạnh phong trào chống triều đình của nông dân và nhân dân vùng dân tộc thiểu số còn có cả phong trào của binh lính chống lại triều đình mà tiêu biểu là

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 06/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí