Quan Điểm Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Tăng Trưởng Ngành Công Nghiệp Giai Đoạn (2006 - 2020)

Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong số các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực chưa có nhiều mặt hàng có hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, số ít sản phẩm đạt được tiêu chí đó thì đa phần là những sản phẩm gia công, lắp ráp, vì vậy sản phẩm thuần Việt đạt những tiêu chí đó là rất ít. Việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp phải những khó khăn lớn về vốn, công nghệ và định hướng thị trường tiêu thụ. Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với cuộc cạnh tranh không cân sức vì phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (trong khi đó chi phí đầu tư ban đầu cho các doanh nghiệp công nghiệp lại rất cao) và tham gia thị trường quốc tế muộn. Trong khi vốn kinh doanh lại rất hạn chế mà khi đó phải trải rộng phạm vi kinh doanh cả trong và ngoài nước nên khó có khả năng đầu tư quy trình công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh với các sản phẩm ngoại có tiêu chuẩn quốc tế. Tiềm lực nghèo nàn cũng dễ dẫn đến hạn chế tầm nhìn cho các chương trình phát triển chiến lược. Trình độ quản lý và kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam còn yếu, chính vì vậy doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ không theo kịp yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh mở cửa thị trường hội nhập.

Tư tưởng ỷ lại của các doanh nghiệp vào sự bảo hộ của nhà nước còn lớn. Nhiều ngành công nghiệp và doanh nghiệp nhà nước còn coi việc hội nhập kinh tế là việc của Nhà nước, của Chính phủ. Trong khi đó các cam kết hội nhập yêu cầu Việt Nam phải xây dựng được môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, xoá bỏ những biện pháp bảo hộ, trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trong xu hướng hội nhập hiện nay đang xuất hiện hiện tượng các nước công nghiệp đang có khuynh hướng di dời các nhà máy, các công đoạn sản xuất

ô nhiễm môi trường, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên sang những khu vực có luật bảo vệ môi trường và giàu tài nguyên thiên nhiên của các nước nghèo, cần thu hút đầu tư nước ngoài để tạo ra công ăn việc làm cho dân mình, dễ xuống cấp hơn. Nếu các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam không chuẩn bị để đối phó với vấn đề nan giải này, với công nghệ xử lý môi trường lạc hậu và trình độ dân trí chưa cao sẽ tạo ra một thiên đường thu hút các công đoạn sản xuất, các nhà máy đang có vấn đề ô nhiễm môi trường. Mặt khác, với sức cạnh tranh kém về công nghệ, các quốc gia đang phát triển như chúng ta sẽ càng bị rút cạn các nguồn tài nguyên do tình trạng xuất các nguồn tài nguyên thô, ít giá trị gia tăng sang các quốc gia có công nghệ chế biến trình độ cao hơn. Chính vì vậy, ngoài các chính sách bảo vệ môi trường lâu dài, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách thích đáng trên cơ sở tính toán khoa học về tốc độ khai thác và phục hồi được cân nhắc trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng và đảm bảo phát triển bền vững.

3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

Trong giai đoạn 2006 - 2020, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng như giai đoạn trước (1991 - 2005), bên cạnh đó nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển ngành hơn nữa. Phấn đấu ngành phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư theo chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng thành phần các ngành sản xuất công nghiệp.

Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, chú trọng công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn, chuyển hướng sản xuất từ thay thế hàng nhập khẩu sang giai đoạn xuất khẩu.

Đầu tư có chọn lọc để phát triển một số ngành công nghiệp trọng điểm, nền tảng như công nghiệp sản xuất các tư liệu sản xuất, công nghiệp hoá dầu, luyện kim, cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản.

Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao như công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lý (để vẫn đứng vững được trong giai đoạn đầu và có khả năng cạnh tranh được khi hội nhập).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp với nhiều quy mô, trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phương, trước hết tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.

Tăng trưởng công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đảm bảo sự tăng trưởng bền vững.

Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam - 12


3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)


3.3.1. Tăng cường huy động nguồn vốn cho tăng trưởng ngành

3.3.1.1. Phát triển thị trường tài chính

* Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

Với chủ trương của Nhà nước ta tiến hành tách biệt công tác quản lý hành chính với quản lý sản xuất kinh doanh, với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp ngành càng lớn mà nguồn vốn của Nhà nước cho đầu tư có hạn, cộng với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp không cao thì biện pháp cổ phẩn hoá các doanh nghiệp Nhà nước là cách làm hữu hiệu nhất giúp đa dạng hoá hình thức sở hữu doanh nghiệp đồng thời có thể huy động được tối đa các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Những cách làm thế là để hiệu quả không làm thất

thoát vốn nhà nước, không làm một bộ phận người dân thu lợi bất chính từ hoạt động này, sau đây là một số giải pháp:

Khi tiến hành định giá tài sản doanh nghiệp phải được tổ chức tài chính uy tín định giá, tính đúng, tính đủ, tính trung thực giá trị tài sản của doanh nghiệp. Riêng đối với bất động sản (như quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp đa thuê của Nhà nước) cần tính đến lợi thế quyền sử dụng vào giá trị của doanh nghiệp.

Việc mua bán cổ phần phải được công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp để tránh tình trạng thất thoát, tránh bán “lúa non“ như đã xảy ra, vừa ngầm, vừa rơi vào tay một số tư nhân. Trước khi cổ phần hoá cần có chế độ ưu tiên, ưu đãi người lao động một cách hợp lý.

Đối với những doanh nghiệp không phải là những doanh nghiệp phát triển sản phẩm mới trọng điểm, sản phẩm phục vụ an ninh – quốc phòng, Nhà nước không nên nắm giữ 51% hoặc trên 51% như hiện này mà bán bớt ra cho người lao động, công chúng đầu tư, để những doanh nghiệp này ngày càng đại chúng và thực sự hoạt động hiệu quả. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hoá nhưng Nhà nước vẫn nắm lượng cổ phần kiểm soát nên vẫn hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp nhà nước, làm hạn chế tính chủ động trong điều hành và chậm cải tiến cơ chế quản lý doanh nghiệp.

Lựa chọn những doanh nghiệp công nghiệp tốt (quy mô vốn lớn, kinh doanh hiệu quả, chiến lược phát triển rõ ràng...) đã tiến hành cổ phần hoá xin niêm yết trên thị trường chứng khoán của những nước phát triển như: Anh, Hoa Kỳ, Singapore, Hồng Kông...Nhằm mục đích thông qua kênh thông tin thị trường chứng khoán của những nước phát triển để quảng bá cho ngành công nghiệp Việt Nam đồng thời tranh thủ sự chú ý mà thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất lớn tại những thị trường này.

* Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trường chứng khoán sẽ là kênh huy động vốn trung và dài hạn song song tồn tại với thị trường vốn vay. Có thêm thị trường chứng khoán đồng nghĩa

với việc các doanh nghiệp có thêm sự lựa chọn cho việc huy động vốn. Doanh nghiệp huy động vốn thông thường này có những ưu điểm như chi phi thấp, tính cạnh tranh cao, tính tự chịu trách nhiệm cao...Để phát triển thị trường cần:

Hệ thống luật pháp về chứng khoán & thị trường chứng khoán cần sớm được hoàn thiện, ban hành.

Tăng cung “hàng hoá“ cho thị trường để cân bằng quan hệ cung – cầu, tránh tình trạng thị trường tăng trưởng quá nóng do khan hiếm “hàng“ như thời gian vừa qua. Bằng biện pháp tăng cường cổ phần hoá doanh nghiệp những doanh nghiệp nào thoả mãn điều kiện niêm yết nên khuyến khích doanh nghiệp niêm yết trên thị trường.

Đa dạng hoá các hàng hoá trên thị trường cho nhà đầu tư lựa chọn (trái phiếu, cổ phiếu, quyền lựa chọn, chứng chỉ quỹ...).

Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường: Tăng số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường.

Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước: Khuyến khích nhà đầu tư có tổ chức, các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ...) tham gia đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình cam kết.

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phối hợp với các ngành liên quan tập trung hoàn thiện hệ thống pháp lý và quản lý, cải tiến bộ máy tổ chức của cơ quan quản lý, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi về quản lý thị trường chứng khoán, thực hiện quản lý, giám sát thị trường chặt chẽ đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức ra công chúng.

3.3.1.2. Phát triển thị trường vốn vay

Trong điều kiện hiện tại và tương lai gần thị trường vốn vay vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc huy động vốn của doanh nghiệp công nghiệp.

Kiện toàn hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phẩn, loại bớt những ngân hàng yếu kém (yếu về vốn, chất lượng dịch vụ, dịch vụ đơn điệu...) chỉ để lại những ngân hàng thực sự mạnh đủ sức cạnh tranh khi mở cửa thị trường vốn cho ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nhỏ lẻ không muốn giải tán thì có thể hợp nhất vào các ngân hàng lớn.

Đẩy mạnh cổ phần hoá các ngân hàng thương mại quốc doanh, liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài để tranh thủ nguồn vốn, trình độ quản lý và công nghệ.

Khuyến khích các mối quan hệ chiến lược giữa ngân hàng với các doanh nghiệp công nghiệp, để khai thác ưu thế của nhau trong quá trình tăng trưởng và phát triển.

3.3.1.3. Huy động vốn trong dân cư

Thị trường chứng khoán phát triển là sức hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Để khai thác tiếp nguồn vốn nhàn rỗi còn lại chưa được đưa vào thị trường chứng khoán, Chính phủ đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, khuyến khích, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, hướng nhà đầu tư vào những ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất lớn, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư (miễn giảm thuế, hộ trợ vay vốn, thành lập các trung tâm tư vấn – hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ) xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp nhằm giải quyết công ăn việc làm tạo thêm thu nhập, tạo nguồn cung cấp vật tư cho cơ sở sản xuất lớn.

3.3.1.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Giữ vững ổn định chính trị có ý nghĩa quyết định thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước phải tạo dựng mặt bằng pháp lý cho môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng, thông thoáng giữa các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau.

Xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp, quy hoạch phát triển ngành, công bố doanh mục những dự án ngành công nghiệp kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài.

Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng các yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.

3.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư.

3.3.2.1. Nguồn vốn đầu tư Nhà nước

Vấn đề thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư đã được đề cập đến nhiều, theo như dự báo trong thời gian tới nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho ngành công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả Nhà nước. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, có những giải pháp sau:

*. Xác định những ngành công nghiệp mới sẽ là trung tâm của sự phát triển trong tương lai để tập trung nguồn vốn Nhà nước, nguồn lực nghiên cứu phát triển đón đầu. Khi Nhà nước đã thành công sẽ tiến hành chuyển giao công nghệ sản xuất cho các đơn vị kinh tế.

Nhà nước cần nghiên cứu, bổ xung các cơ chế, chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín và những tồn tại đã nêu trong quản lý đầu tư, tách biệt hoạt động đầu tư với hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Các hoạt động đầu tư của Nhà nước phải có nhiều sự tham gia của các đối tượng kinh tế để tăng tính cạnh tranh và giám sát hoạt động. Ví dụ như hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, Nhà nước có thể tiến hành đấu thầu tìm kiếm các đối tượng có khả năng cung cấp dịch vụ thăm dò tốt nhất. Khi xác định có mỏ dầu, Nhà nước tiến hành đấu thầu đơn vị khai thác. Dầu mỏ được khai thác, Nhà nước tiến hành bán đấu giá...

Nhà nước cần nâng cao năng lực công tác kế hoạch trong đó cần nâng cao công tác quy hoạch, kiên quyết quản lý đầu tư theo quy hoạch được duyệt, đầu tư tập trung, theo mục tiêu, theo quy hoạch và hiệu quả.

Chính phủ cần chỉ đạo điều chỉnh, bổ xung hoặc xây dựng mới các quy hoạch, kế hoạch đầu tư, gắn quy hoạch với mục tiêu chiến lược phát thiển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng; phân

cấp, phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng bộ phận, giữa bộ phận địa phương nâng cao trách nhiệm quản lý, điều hành của các cấp.

Nhà nước muốn chống thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cần phải tiến hành hàng loạt các biện pháp từ khâu lập kế hoạch, dự toán, triển khai, tiếp quản, nhưng biện pháp quan trọng nhất là việc công khai hoá toàn bộ hoạt động đầu tư bằng vốn nhà nước để các thành phần kinh tế, người dân có thể giám sát.

Đối với doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước nên tiến tới xoá bao cấp, độc quyền, nâng cao tự chủ, chịu trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng.

3.3.2.2. Nguồn vốn đầu tư ngoài khu vực Nhà nước

Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư khu vực ngoài Nhà nước cần khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Thực tế đã chứng minh, kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên doanh liên kết không phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh.

Nhà nước cần đối xử công bằng dọc, công bằng ngang. Công bằng ngang đối xử các doanh nghiệp như nhau không phân biệt quốc doanh hay ngoài quốc doanh miễn là giống nhau; công bằng dọc đối xử khác nhau với những doanh nghiệp có công nghệ, ngây ô nhiễm môi trường khác nhau.

Khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được đối xử công bằng, tạo một ’’sân chơi bình đẳng“ thì doanh nghiệp Nhà nước nếu muốn tồn tại và phát triển sẽ năng động tích cực hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.

3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã thu hút được lượng lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhờ lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, chi phí rẻ. Lợi thế đó sẽ mất dần trong tương lai. Khi nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển thì chi phí lao động tăng lên và công việc đòi hỏi người lao động cũng phải có trình độ cao hơn để vận hành máy móc và các hoạt động kinh tế. Nâng cao chất lượng tăng trưởng phải nâng cao năng suất lao động và muốn nâng cao

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 25/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí