chính quyền địa phương; định rò chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền được xác định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi). Xác định rò tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.
Thứ sáu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tụy, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Thứ bảy: Xây dựng tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình.
Thứ tám: Xây dựng cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.
Thứ chín: Nền hành chính nhà nước được hiện đại hóa một bước rò rệt. Các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suốt. Hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ được đưa vào hoạt động [4].
Để đạt được 9 mục tiêu trên, cải cách hành chính đang đặt ra 04 nội dung:
Một là, cải cách thể chế:
- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta - 1
- Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta - 2
- Đổi Mới, Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức
- Những Kết Quả Đạt Được Về Cải Cách Hành Chính Trong Lĩnh Vực Đầu Tư Nước Ngoài Ở Nước Ta
- Những Kết Quả Đạt Được Ở Lĩnh Vực Cải Cách Bộ Máy Hành Chính Nhà Nước
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính [7].
Theo đó, hệ thống thể chế phải vừa thực sự giải phóng sức sản xuất xã hội, vừa giữ được định hướng về chính trị. Quá trình cải cách hành chính, việc chuyển từ hành chính thuần túy công quyền sang hành chính nhà nước pháp quyền và dịch vụ công, tiếp tục xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển, vì hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu để kiểm chứng hệ thống thể chế. Theo đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra là, cần rành mạch hóa các quan hệ cơ bản giữa hành chính nhà nước với doanh nghiệp và dân cư, giữa hành chính với dịch vụ công, giữa Trung ương và địa phương.
Hệ thống thể chế phải vừa thực sự giải phóng sức sản xuất xã hội, vừa giữ được định hướng về chính trị. Quá trình cải cách hành chính, việc chuyển từ hành chính thuần túy công quyền sang hành chính nhà nước pháp quyền và dịch vụ công.
Hai là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ, làm các dịch vụ hành chính. Còn doanh nghiệp và người dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh giá khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Theo đó, việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính sẽ tập trung vào việc:
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
- Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện.
- Áp dụng các quy định mới về phân cấp Trung ương - địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rò những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của Trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương.
- Bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
- Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp.
- Thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính [7].
Trên cơ sở chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thiết kế bộ máy, đẩy nhanh việc xây dựng thị trường đồng bộ để di chuyển nguồn lực theo chiều ngang, dùng áp lực của thị trường để kiểm chứng các hoạt động kinh doanh theo định hướng của Nhà nước. Về nguyên tắc, Nhà nước không làm thay thị trường và dân cư. Do vậy, phải xây dựng chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền và trách nhiệm của hệ thống hành chính nhà nước. Các
cơ quan quản lý nhà nước tập trung xây dựng, chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý vĩ mô. Xây dựng, ban hành luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch chính sách và kiểm tra việc thực hiện chúng. Bộ máy cần tổ chức theo hướng liên ngành, đa lĩnh vực. Thực hiện quản lý kinh tế theo ngành từ chiến lược, quy hoạch đến phân bổ nguồn lực, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí trong đầu tư xây dựng. Về nguyên tắc, việc quản lý cần kết hợp cả ngành và lãnh thổ, nhưng ngành là chính để tránh tình trạng cát cứ, chia cắt. Quản lý của chính quyền địa phương là quản lý toàn diện cả kinh tế và xã hội.
Tiếp tục giảm các cơ quan trực thuộc Chính phủ. Bên cạnh tổ chức Chính phủ, có các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội, nhưng tránh xu hướng nhà nước hóa các tổ chức xã hội như hiện nay. Bên cạnh cơ cấu tĩnh, cần có cơ cấu động giúp Chính phủ nghiên cứu những vấn đề lớn, phức tạp liên ngành để giảm bộ máy nhà nước. Tách chức năng dịch vụ công ra khỏi chức năng bộ máy nhà nước để các tổ chức tự quản chịu trách nhiệm.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Để đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cần phải thực hiện các công việc sau:
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức
- Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức [7].
Để nâng cao chất lượng và năng lực của đội ngũ công chức, trước hết cần thực hiện chế độ công vụ theo chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn; có tiêu chí đánh giá kết quả công việc theo từng chức danh. Kết hợp quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, thực hiện chế độ thi tuyển đối với các trường hợp đề bạt; đổi mới quan niệm công chức theo
hướng nghề nghiệp, chức nghiệp làm việc ổn định. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để đội ngũ công chức yên tâm làm việc lâu dài và cống hiến với khả năng cao nhất năng lực, trình độ của mình cho cơ quan, đơn vị. Thực hiện thí điểm chọn cán bộ theo phương châm cạnh tranh nhân tài để có đội ngũ công chức có năng lực thực sự.
Bốn là, cải cách tài chính công
Trong cải cách tài chính công cần thực hiện:
- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
- Thực hiện nguyên tắc công khai tài chính, sử dụng ngân sách ở các cấp hành chính, các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước, thực hiện thí điểm và đang nhân rộng dần cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính và cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng Nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
- Trên cơ sở phân biệt rò cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, thực hiện đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cách tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra,
chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi mới hệ thống định mức chi tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.
- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
- Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như:
+ Cho thuê đơn vị, sự nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh viện, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công chức chuyển từ các đơn vị công lập sang dân lập.
+ Cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học, trên đại học, khám chữa bệnh có chất lượng cao v.v…
+ Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công cộng như vệ sinh đô thị, cấp, thoát nước, cây xanh công viên, nước phục vụ nông nghiệp…
+ Thực hiện cơ chế hợp đồng một dịch vụ công trong cơ quan hành chính.
- Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, xóa bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai [7].
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước, giảm thiểu ngân sách đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Ngân sách nhà nước chỉ dành cho những lĩnh vực trọng yếu liên quan đến quốc phòng, an ninh, văn hóa, giáo dục, xã
hội, hỗ trợ phát triển. Xóa bỏ tài trợ cho những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế quản lý phân cấp ngân sách, bảo đảm thống nhất nền tài chính quốc gia trên những lĩnh vực cơ bản, đồng thời, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương theo cơ chế khoán chi ngân sách hành chính. Kiểm soát chặt chẽ ngân sách nhà nước chi cho đầu tư xây dựng, xóa bỏ tiêu cực trong lộ trình cấp phát vốn như hiện nay.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.2. Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước người
1.2.1. Quan niệm cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Cải cách hành chính cho đầu tư nước ngoài của nước ta trong giai đoạn hiện nay đang chịu sự tác động bởi hai xu thế lớn của thế giới: đa cực hóa và toàn cầu hóa.
Theo đó, cải cách hành chính cho đầu tư nước ngoài cũng có nhiều điểm mới chịu tác động bởi những yếu tố khoa học quản lý, những nhân tố thị trường, những mối quan hệ ngày càng đa dạng phức tạp giữa chính trị - hành chính - kinh tế, những bước nhảy vọt của khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hóa đời sống xã hội, trình độ dân trí được nâng cao mọi mặt đã đề ra yêu cầu mới đối với các nhà nước, các chính phủ và các nền hành chính công.
Tuy nhiên, xét ở khía cạnh thực tế cải cách hành chính cho đầu tư nước ngoài hiện nay đang được các cơ quan quản lý của Việt Nam tiến hành bao gồm các vấn đề sau đây.
1.2.1.1. Cải cách thể chế
Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, thì yếu tố quan trọng trong cải cách thể chế để thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó:
- Phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, thể hiện trong từng chính sách, kế hoạch phát triển.
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý bằng cách tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Trong đó, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài theo hướng tạo một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa các hình thức đầu tư. Trong đó, sự thống nhất chung về quan điểm giữa nhận thức và hành động của Bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương trong việc thu hút, quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo sự nhất quán thống nhất về chính sách, tạo sự ổn định, minh bạch; các chính sách ban hành sau phải đảm bảo nguyên tắc kế thừa, không hồi tố và hấp dẫn hơn trước.
- Đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Theo đó, nghiên cứu mở rộng phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho các địa phương, mặt khác các cơ quan chức năng của Chính phủ tăng cường giám sát về tình hình thực hiện phân cấp. Các ngành tiến hành rà soát điều chỉnh quy hoạch ngành theo hướng xóa bỏ phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho khu vực đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành.
1.2.1.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Bộ máy hành chính nhà nước hiện nay từ Chính phủ đến chính quyền địa phương các cấp vẫn còn ôm đồm quá nhiều việc. Trong khi việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, và giữa các cấp chính quyền địa phương vẫn đang còn nhiều hạn chế, bất hợp lý. Vì vậy, cải cách tổ chức bộ máy hành chính cần tiến hành: