Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý - 3

ở Canada, đó là các tổ chức trợ giúp pháp lý cộng đồng, Hội trợ giúp pháp lý sinh viên, Tổ chức trợ giúp pháp lý thổ dân (theo Điều 14, Luật Dịch vụ trợ giúp pháp lý của bang Ontario năm 1998, Canada). Ở Philippine, là Ủy ban trợ giúp pháp lý về đất đai thuộc Bộ Cải cách ruộng đất, Hiệp hội luật sư… cũng thực hiện trợ giúp pháp lý. Ở Úc có các Trung tâm pháp lý cộng đồng, Trung tâm trợ giúp pháp lý cho thổ dân….

- Người thực hiện trợ giúp pháp lý

Người thực hiện trợ giúp pháp lý là người cung cấp dịch vụ pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Theo Điều 20, Luật trợ giúp pháp lý thì người thực hiện trợ giúp pháp lý gồm có Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn viên pháp luật.

(i). Trợ giúp viên pháp lý

Trợ giúp viên pháp lý là viên chức của Trung tâm được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ. Để trở thành Trợ giúp viên pháp lý, viên chức của Trung tâm phải có bằng Cử nhân luật, có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý sau khi đã hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề luật sư (hiện đang là 06 tháng); có thời gian làm công tác pháp luật từ 02 năm trở lên; có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trợ giúp viên pháp lý thực hiện tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật, hòa giải và các hình thức trợ giúp pháp lý khác. Đây là đội ngũ nòng cốt của Trung tâm tham gia hoạt động tố tụng (đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp) cho người được trợ giúp pháp lý.

(ii). Cộng tác viên trợ giúp pháp lý

Cộng tác viên là những người làm việc trên cơ sở hợp đồng cộng tác với Trung tâm để thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý. Cộng tác viên có thể là luật sư, Tư vấn viên pháp luật, người có bằng cử nhân luật, người có bằng đại học khác làm việc trong ngành, nghề liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi người có bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng cũng được xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên trên cơ sở đơn tham gia của họ.

+ Người có thời gian làm công tác pháp luật là người đã hoặc đang đảm nhiệm các chức danh như thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Toà án, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thanh tra viên, Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên ngành Toà án, Kiểm tra viên ngành Kiểm sát; chuyên viên pháp lý, cán sự pháp lý trong ngành Tư pháp hoặc tổ chức pháp chế các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang; công chức tư pháp hộ tịch xã, phường, thị trấn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

+ Người có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng là người đã hoặc đang là thành viên tổ hoà giải, thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, già làng, trưởng bản, trưởng thôn, trưởng các dòng họ, đại diện tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cơ sở.

+ Cộng tác viên không phải là luật sư chỉ tham gia trợ giúp pháp lý bằng hình thức tư vấn pháp luật. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý Cộng tác viên được Trung tâm, Chi nhánh thanh toán tiền bồi dưỡng theo vụ việc và các chi phí hành chính hợp lý khác theo quy định của pháp luật.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý - 3

(iii). Luật sư

Luật sư có thể thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên của Trung tâm hoặc tham gia trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề

của luật sư (Văn phòng luật sư, Công ty luật) có đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý mà luật sư đó là thành viên, hoặc trợ giúp pháp lý theo nghĩa vụ của luật sư theo pháp luật về luật sư.

(iv). Tư vấn viên pháp luật

Tư vấn viên pháp luật làm việc tại các Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc tham gia trợ giúp pháp lý khi Trung tâm tư vấn pháp luật có đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý hoặc thực hiện trợ giúp pháp lý theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 về tư vấn pháp luật.

Trên thế giới, nhìn chung ở các nước, hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu được thực hiện bởi đội ngũ luật sư chuyên nghiệp. Ngoài ra, một số nhóm người khác như sinh viên, cán bộ pháp luật nhà nước, những người có kiến thức pháp luật nhất định cũng được thu hút khuyến khích làm công tác trợ giúp pháp lý.

Ở Hàn Quốc, có ba nhóm người được pháp luật cho phép thực hiện trợ giúp pháp lý, đó là: Uỷ viên trợ giúp pháp lý (phụ trách các vụ việc đại diện, bào chữa); Luật sư công do tổ chức trợ giúp pháp lý tuyển dụng để thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý (cụ thể là các vụ đại diện, bào chữa) và Luật sư chỉ định (được chỉ định thực hiện trợ giúp pháp lý nhưng không phải luật sư mà chỉ là người có am hiểu về pháp luật. Những người này khi thực hiện trợ giúp pháp lý không cần có đăng ký đủ tư cách luật sư nhưng vẫn phải tuân thủ mọi nghĩa vụ và trách nhiệm như một luật sư).

Ở Canada, Dự luật về trợ giúp pháp lý cho phép những nhóm người sau được thực hiện trợ giúp pháp lý: Các luật sư tư (những người đang hành nghề luật sư tư nhưng có thoả thuận, cam kết với Cục trợ giúp pháp lý về việc đồng ý giúp đỡ pháp lý cho đối tượng được trợ giúp của Cục); người cung cấp

dịch vụ (những người không phải là luật sư và chỉ được cung cấp các dịch vụ giúp đỡ khác, không thuộc loại trợ giúp pháp lý); thành viên của tổ chức trợ giúp pháp lý cộng đồng (những người xuất thân từ chính cộng đồng đó, không nhất thiết là luật sư nhưng phải qua một khoá đào tạo đặc biệt do Cục trợ giúp pháp lý); tổ chức sinh viên (những người đang theo khoá học để được gia nhập Đoàn Luật sư hoặc bất cứ khoá học pháp luật nào mà Hiệp hội luật sư tổ chức) và luật sư thường trực (những luật sư được Cục trợ giúp pháp lý ký hợp đồng để thường trực tại Toà và giúp đỡ pháp lý cho những người phải ra Toà mà chưa có luật sư).

Ở Úc, hoạt động trợ giúp pháp lý có thể được thực hiện bởi thành viên của Uỷ ban trợ giúp pháp lý và luật sư tư (những người hành nghề tư bên ngoài được Uỷ ban trợ giúp pháp lý mời giúp đỡ pháp lý cho đối tượng được trợ giúp và được Uỷ ban trả thù lao) và thành viên của các tổ chức trợ giúp pháp lý tình nguyện (ví dụ: Trung tâm trợ giúp pháp lý cộng đồng) thực hiện trợ giúp pháp lý.

Ở Philippin, người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm các luật sư công (thuộc Văn phòng luật sư), luật sư tư (thuộc Hiệp hội luật sư) và các luật sư thuộc các tổ chức trợ giúp pháp lý phi Chính phủ. Nhìn chung những người này muốn thực hiện trợ giúp pháp lý đều phải có chứng chỉ luật sư.

1.1.2.2. Người được trợ giúp pháp lý

Người được trợ giúp pháp lý là người được hưởng các dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí. Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa và tính chất của hoạt động trợ giúp pháp lý, không phải tất cả mọi người dân đều được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý mà chỉ có những nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội được hưởng dịch vụ này. Theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ và pháp luật hiện hành, những đối tượng sau đây được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước:

- Người thuộc hộ nghèo: Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ, hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000đ/tháng ở nông thôn và 500.000đ/tháng ở thành thị.

- Người có công với cách mạng:

+ Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa ngày 19 tháng 8 năm 1945;

+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động;

+ Thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh;

+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;

+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;

+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế;

+ Người có công giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"…;

+ Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ dưới 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.

- Người già cô đơn không nơi nương tựa: là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân và không có nơi nương tựa.

- Người khuyết tật: là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận


. Theo Luật người khuyết tật năm 2010 thì người khuyết tật có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí.

- Trẻ em không nơi nương tựa: được trợ giúp pháp lý là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa.

- Người dân tộc thiểu số: thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật.

- Nạn nhân bị mua bán: là người bị xâm hại bởi hành vi mua, bán người. Theo Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 thì nạn nhân bị mua bán được trợ giúp pháp lý miễn phí.

- Các đối tượng khác: được trợ giúp pháp lý theo quy định tại Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Trung Quốc, Ucraina, Pháp, Mông Cổ…).

Một số nước trên thế giới cũng quy định một số nhóm người nhất định trong xã hội được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý, như pháp luật trợ giúp pháp lý ở Trung Quốc quy định: Một người có đủ điều kiện để được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý phải đáp ứng một trong hai loại điều kiện: Điều kiện chung và điều kiện đặc biệt.

Điều kiện chung: Có nhiều lý do chứng tỏ việc trợ giúp pháp lý là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và người nộp đơn không có khả năng trả chi phí dịch vụ pháp lý do tình hình tài chính khó khăn. Thuật ngữ "tài chính khó khăn" đã cụ thể hơn bằng việc đưa ra hai tình huống: (i) Người xin trợ giúp đúng là không có nguồn thu nhập và không có khả năng để xác định một cách chắc chắn nguồn tài chính của gia đình họ và (ii) người đó chắc chắn không có thu nhập và những người thân thích của họ cũng không có khả năng giúp đỡ họ.

Điều kiện đặc biệt: Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Tòa án nhân dân sẽ yêu cầu trợ giúp pháp lý cho người mù, người điếc, câm, người dân tộc thiểu số và những người phạm tội bị kết án tử hình nếu họ không mời được luật sư đại diện, bào chữa tại tòa hình sự.

1.1.2.3. Các hình thức trợ giúp pháp lý

Điều 27, Luật trợ giúp pháp lý quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý được cung cấp các dịch vụ trợ giúp pháp lý bằng các hình thức như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và các hình thức trợ giúp pháp lý khác như: hoà giải, hướng dẫn thủ tục khiếu nại, kiến nghị thi hành pháp luật…

- Tư vấn pháp luật

Người thực hiện trợ giúp pháp lý hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý.

Tư vấn pháp luật có thể được thực hiện trực tiếp cho người được trợ giúp pháp lý tại trụ sở; tư vấn theo yêu cầu qua điện thoại hoặc trả lời bằng văn bản; tư vấn thông qua trợ giúp pháp lý lưu động; tư vấn thông qua sinh hoạt của Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý hoặc tại các đợt sinh hoạt chuyên đề pháp luật.

- Tham gia tố tụng

Người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được trợ giúp pháp lý là người bị hại, là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Để bào chữa trong vụ án hình sự, Trợ giúp viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

- Đại diện ngoài tố tụng

Người thực hiện trợ giúp pháp lý làm đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan tiến hành tố tụng.

Việc đại diện ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý.

- Các hình thức trợ giúp pháp lý khác

+ Tham gia hòa giải giúp người được trợ giúp pháp lý tự giải quyết tranh chấp.

Khi có yêu cầu hoặc được sự đồng ý của một hoặc các bên, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử người thực hiện trợ giúp pháp lý làm trung gian để phân tích các tình tiết của vụ việc, giải thích quy định của pháp luật, hướng dẫn để các bên tự thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc mà không phải đưa vụ việc ra Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tự nguyện rút đơn kiện, tự giải quyết các tranh chấp và tự nguyện chấp hành kết quả giải quyết vụ việc.

Việc hoà giải cũng được tiến hành trong trường hợp cần thiết để giữ gìn đoàn kết cộng đồng, duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, trừ trường hợp pháp luật quy định không được hoà giải.

+ Người thực hiện trợ giúp pháp lý giúp người được trợ giúp pháp lý thực hiện các công việc có liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại hoặc tham gia trong quá trình giải quyết trong trường hợp họ không thể tự mình thực hiện được để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp hoặc thực hiện nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Cung cấp thông tin pháp luật, tờ gấp, sách bỏ túi, cẩm nang pháp luật, các ấn phẩm tài liệu pháp luật khác qua các đợt trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, sinh hoạt chuyên đề pháp luật.

Cung cấp bản sao các điều khoản của văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý, cung cấp địa chỉ làm việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà pháp luật quy định có thẩm quyền giải quyết vụ việc, liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc trong trường hợp người được trợ giúp pháp lý không tự thực hiện được.

- Kiến nghị thi hành pháp luật

Khi có đủ căn cứ cho rằng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không giải quyết vụ việc cho người được trợ giúp pháp lý hoặc kết quả giải quyết vụ việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa phù hợp với quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho người được trợ giúp pháp lý thì tổ chức thực hiện trợ

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí