Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sản Xuất Hàng Nông Sản


Việt Nam

1.3.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất hàng nông sản

Khi nói đến quá trình sản xuất nói chung, người ta thường quan tâm tới các tác động thuộc về các yếu tố chủ quan (từ nội bộ ngành sản xuất) và tính khách quan (tác động của môi trường mà ngành sản xuất đó đang hoạt động). Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp nói chung, sản xuất nông sản phục vụ xuất khẩu nói riêng cũng không nằm ngoài những nhóm yếu tố đó.

Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đan xen của nhiều thành phần kinh tế ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch định hướng, chính sách và các công cụ đòn bẩy khác. Trong đó, việc đổi mới các chính sách về giá cả, thuế, đầu tư, lưu thông, xuất nhập khẩu... cũng như việc ứng dụng những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất nông sản xuất khẩu nói riêng phát triển với tốc độ ổn định và bền vững.

Đồng thời, Nhà nước đã thực hiện mạnh mẽ chính sách điều chỉnh quan hệ sản xuất ở khu vực nông thôn để giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân. Bên cạnh những định hướng chung phát triển sản xuất nông nghiệp ở mỗi quốc gia như về quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; chiến lược phát triển ngành nông nghiệp trong từng thời kỳ, giai đoạn gắn với nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể phát triển kinh tế-xã hội, chính sách tác động trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất nông sản xuất khẩu nói riêng như sau:

a. Chính sách giá sản phẩm phục vụ sản xuất hàng nông sản xuất khẩu


Điểm xuất phát cho bàn luận này là giá xuất khẩu cho bất kỳ loại hàng nông sản nào được xem xét. Trong thực tế, giá xuất khẩu (và cả giá nhập khẩu) ít nhiều phù hợp với chi phí thị trường sẽ bằng giá trong nước, nếu loại trừ các chính sách điều tiết của Nhà nước. Lúc này, giá xuất nhập khẩu cung cấp chuẩn mực về chi phí tiêu thụ hay sản xuất sản phẩm để so sánh ngược trở lại với giá cả hình thành trong nước. Đối với công tác hoạch định chính sách giá, để xây dựng và đi đến quyết định một mức giá cụ thể của một loại nông sản thì phải xem xét tới rất nhiều yếu tố cả về thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Bài học chủ yếu của kinh nghiệm phát triển qua hơn một thập kỷ 90 của thế kỷ 20 là tầm quan trọng của sự “định hướng ra bên ngoài”. Đối với nông nghiệp cũng như những ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu khác, điều này có nghĩa là thị trường thế giới cung cấp những tính hiệu phù hợp nhất về sự thiếu hụt hoặc thừa tương đối của mỗi hàng hóa riêng biệt, và do vậy, làm nảy sinh nhu cầu sản xuất hoặc tiêu thụ những hàng hóa ấy. Giá xuất khẩu-giá mà một nước nhận được từ xuất khẩu một hàng hóa-truyền tính hiệu này tới những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước thông qua hệ thống thị trường.

Chúng ta đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), theo đó, chính sách về thị trường, về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng được mở rộng và phát triển theo. Các lực lượng thị trường truyền đạt giá xuất nhập khẩu cho các nhà ra quyết định trong nước là những người được tự do phản ứng bằng việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Đáng tiếc là hệ thống lưu thông truyền các tín hiệu này vẫn còn kém hiệu quả và tốn kém. Hơn nữa, các quy tắc về thể chế, mặc dù đã được các cấp có thẩm quyền tạo điều kiện hết sức “cởi mở” trong quá trình tự do hóa thương mại nhưng vẫn hoàn toàn chưa rõ ràng và trong thực hiện còn vướng mắc. Điều này sẽ làm tăng rủi ro và chi phí thương mại, ở mức trầm trọng hơn thì nó còn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.


ngăn cản hiệu quả của các tín hiệu giá của thị trường thế giới truyền tới nông dân, thương gia và người tiêu dùng trong nước. Nếu như việc phản ứng nhanh đối với các cơ hội ở các thị trường này sẽ là một nguồn quan trọng đối với quá trình phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, thì sự thất bại trong truyền các tín hiệu cần thiết sẽ là sự trở ngại chủ yếu đối với quá trình phát triển đó.

Các giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 8

Chính sách giá nông sản phẩm xuất khẩu gắn chặt với lợi ích của người nông dân-những người trực tiếp sản xuất ra loại sản phẩm này. Tuy nhiên, người tiêu thụ và nền kinh tế vĩ mô lại được đặt trong cỗ xe của thị trường thế giới luôn vận động và thay đổi theo các chiều hướng tích cực và tiêu cực khác nhau. Trong những năm vừa qua, giá cả nông sản phẩm xuất khẩu thực tế đã có sự thay đổi, tăng hơn nhiều lần so với trước đây. Tình hình này tác động đến lợi ích của người tiêu dùng cũng như người sản xuất (những người có thu nhập chính từ sản xuất nông sản phẩm). Nền kinh tế nông sản phẩm có thể tạo ra nhiều việc làm và đóng góp cho thu nhập quốc dân. Để phòng ngừa những biến động giá cả đột ngột do sự bất ổn định, nền kinh tế nông sản phẩm nội địa phải được ưu tiên cao. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai và phải tiếp nhận các điều kiện thị trường như thực trạng, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Theo đó, cần quan tâm tới các ảnh hưởng qua lại lẫn nhau khi vận dụng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông sản phẩm. Nhất là những hỗ trợ trước về giá, về thưởng xuất khẩu sẽ không còn nữa (những hình thức này được xem là trợ cấp xuất khẩu trực tiếp nên không được thực hiện), mà chuyển sang hỗ trợ bằng các hình thức khác đã được quy định cụ thể trong cam kết- có thể hỗ trợ thông qua các chính sách như đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, thuỷ lợi, áp dụng khoa học-kỹ thuật nhằm tạo giống tốt, chất lượng cao...

Điều đáng quan tâm đối với một nước có điều kiện địa lý phức tạp


như Việt Nam là một hệ thống lưu thông có hiệu quả và chi phí thấp chính là điều kiện quan trọng làm tăng khả năng của người sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Lúc đó, chính sách giá nông sản phẩm có hai phần: (1) theo giá xuất khẩu thế giới trong nhiều năm với chi phí sản xuất và lưu thông thấp hơn; (2) chuẩn bị các cơ chế dự phòng để ổn định giá nội địa nếu thị trường nông sản thế giới đột nhiên thiếu nông sản nghiêm trọng.

b. Chính sách đầu tư, tín dụng nông nghiệp tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng nông sản xuất khẩu

Trong phần này, xuất phát từ công thức của Keynes, tức là có phải khi tăng tín dụng (có nghĩa là cho vay nhiều) sẽ dẫn tới sự phát triển kinh tế nhanh hơn? Thực chất của vấn đề chủ yếu là làm sao khuyến khích và bảo đảm có nhiều tín dụng hơn cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất nông sản phẩm xuất khẩu và các cơ sở chế biến. Hiện nay vẫn tiếp tục có sự tranh luận giữa hai cách tiếp cận: (1) tin tưởng vào sự phân phối và quyết định của Chính phủ, khi không trực tiếp phân phối nguồn vốn cho vay vào các mục đích, các ngành ưu tiên hơn; (2) chương trình tự do hóa tài chính được áp dụng rộng rãi ở một số nước phát triển.

Sự phân tích truyền thống và công thức của Jhon Maynard Keynes (1935), tập trung vào việc giữ lãi suất thấp để khuyến khích đầu tư nhằm tạo ra sản lượng cao hơn. Cách tiếp cận của Keynes cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giảm tiền mặt để có thể bảo đảm sản xuất đạt đến tối đa. Lý thuyết này của Keynes rất phù hợp với chiến lược cung cấp chủ đạo, hấp dẫn và có vẻ thông thường về phát triển tài chính. Trong chiến lược này, tài chính sẽ được cung cấp trước hết cho các nhu cầu mang lại hiệu quả. Vì vậy, các chương trình và các tổ chức cho vay đặc biệt được thành lập để phục vụ các khách hàng và mặt hàng được ưu tiên. Người ta đã chỉ rõ, sự có mặt của các chủ ngân hàng sẽ kích thích các doanh nghiệp, người đầu tư sản xuất tăng cường quản lý sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tích


cực đầu tư. Nhiều nước đang phát triển đã chấp nhận và thực hiện công thức của Keynes. Đối chiếu với lý thuyết kinh tế tân cổ điển, kinh nghiệm của các nước đi trước đã xây dựng một số nền tảng của hệ thống tín dụng nông nghiệp có hiệu quả bao gồm:

Điều kiện ổn định của kinh tế vĩ mô;

Duy trì mức giá hợp lý, nhất là đối với nông sản và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp (tức là mức giá đó phải phản ảnh sự khan hiếm thực sự hoặc mức độ hàng hóa hiện có là nguy hiểm trong nền kinh tế thị trường);

Ban hành một hệ thống đầy đủ các luật và quy chế hoạt động của hệ thống tài chính.

Đối với nước ta, để thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nói chung, sản xuất nông sản phẩm nói riêng, cần quan tâm tới các vấn đề sau:

Quan tâm đầu tư tín dụng cho công tác nghiên cứu khoa học, đưa giống mới, kỹ thuật cao, khuyến nông, thuỷ lợi, phát triển thị trường và đào tạo chuyên môn cho người sản xuất nông sản xuất khẩu;

Huy động các nguồn vốn trong dân cư tạo lập các quỹ để cho vay trong các ngân hàng;

Củng cố các HTX và các quỹ tín dụng nhân dân ở trung ương và địa phương để khai thác, huy động được tiềm năng, thế mạnh của các đối tượng này phục vụ sản xuất nông sản phẩm xuất khẩu;

Củng cố kỷ luật tài chính của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu và các ngân hàng để tạo sự lành mạnh về tài chính phục vụ sản xuất nông sản phẩm xuất khẩu.

c. Nghiên cứu, triển khai và tăng năng suất trong sản xuất hàng nông sản xuất khẩu

Tăng năng suất được coi là nhân tố chủ yếu góp phần tăng trưởng


sản xuất hàng nông sản xuất khẩu; nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa. Tất cả các hoạt động nghiên cứu, triển khai, đào tạo nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện chính sách giá cả, đầu tư, tín dụng đều góp phần vào sự gia tăng năng suất. Khi nói đến việc ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, áp dụng những giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao đi đôi với công tác khuyến nông, thuỷ lợi, bảo đảm nước tưới tiêu đối với sản xuất nông sản phẩm, cũng như quan tâm đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại các thiết bị, dây chuyền chế biến nông sản phẩm sẽ góp phần tăng giá trị sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản phẩm, tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu, đem lại thu nhập cho ngân sách.

Để khoa học và công nghệ đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp với năng suất và chất lượng cao, bền vững thì điều quan trọng là phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành đuổi kịp các nước trong khu vực và nâng mức đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác khuyến nông đến tận cơ sở và hộ nông dân, nhằm giúp nông dân hiểu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nông nghiệp...Trên từng lĩnh vực cụ thể tác động tới chất lượng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa nước ta, cần chú trọng các khâu sau:

- Về giống: bảo đảm trên 70% giống được dùng trong sản xuất nông sản phẩm xuất khẩu là giống tốt, có chất lượng, khả năng đề kháng cao. Đẩy mạnh việc nghiên cứu lai tạo và ứng dụng giống ưu thế lai. Đầu tư để


bảo đảm yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu tạo giống mới và sản xuất giống gốc. Giành đủ kinh phí cần thiết để nhập khẩu nguồn gien và giống tiến bộ kỹ thuật phục vụ công tác nghiên cứu, lai tạo giống mới và để nhân nhanh giống tốt phục vụ sản xuất đại trà.

- Về đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi, tưới tiêu: Để làm được những vấn đề trên, điều đáng quan tâm là cần đầu tư thỏa đáng cho công tác nghiên cứu, triển khai, kể cả việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào để ứng dụng trong nước. Đi đôi với công việc này thì quá trình đầu tư kết cấu hạ tầng đối với hệ thống thuỷ lợi phải theo hướng vừa đầu tư xây dựng mới, vừa bảo đảm kinh phí duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ, sửa chữa lớn các công trình thuỷ lợi đã xuống cấp nghiêm trọng...

- Về bảo quản, chế biến: Nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại để bảo quản, sơ chế, chế biến nông sản phẩm nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị hàng hóa, bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng quốc tế và đa dạng hóa các sản phẩm phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Trước mắt cần đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ đối với các cơ sở sản xuất hiện có và sử dụng công nghệ mới tiên tiến đối với các cơ sở sản xuất xây dựng mới, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của từng thị trường xuất khẩu hàng hóa.

Tuy nhiên, để làm được các công việc trên, cần đào tạo được một đội ngũ cán bộ có đạo đức, tâm huyết nghề nghiệp, sẵn sàng vì nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, phục vụ việc sản xuất ra những nông sản phẩm có yêu cầu chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dựng trong nước và xuất khẩu.

d. Chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến hàng nông sản xuất khẩu

Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy mô hợp lý ở


khu vực nông thôn; coi đây là bộ phận quan trọng của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

Hiện nay, nước ta có khoảng hơn 70% dân số sống ở nông thôn. Đây là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng để hướng các ngành sản xuất khác vào khai thác thế mạnh của khu vực kinh tế này. Kinh nghiệm nhiều nước đông dân ở Châu Á thì chiến lược phát triển đi từ nông nghiệp và nông thôn là sự lựa chọn khôn ngoan và có hiệu quả bởi một số lý do sau:

- Tập trung phát triển nông thôn sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập của nông dân, giảm thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố lớn, đô thị;

- Làm tăng mối liên kết nông thôn-thành thị để cùng phát triển vững chắc;

- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chế biến, lưu thông phân phối trên cơ sở nguồn nguyên liệu tại chỗ rất phong phú, góp phần nâng cao chất lượng, giá trị hàng nông sản xuất khẩu nói riêng, nông sản hàng hóa nói chung.

Trên cơ sở các chiến lược đề ra, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến nông sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh để các loại hình doanh nghiệp này an tâm phát triển. Đồng thời, cần có hệ thống các cơ chế, chính sách, đòn bẩy để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Theo đó, cần quan tâm tới các chính sách sau:

- Về tín dụng đầu tư: hỗ trợ lãi suất cho đầu tư trang thiết bị sản xuất hiện đại, công nghệ mới về sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản phẩm; hình thành các quỹ đầu tư bỏ vốn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến nông sản xuất khẩu; hỗ trợ tài chính cho công tác thông tin tiếp thị;

- Về chính sách thuế: miễn hoặc giảm một số loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một số năm đầu hoạt động tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn...

Xem tất cả 248 trang.

Ngày đăng: 03/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí