Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam - 2

giảm trừ gia cảnh còn thấp, chưa cập nhật theo tình hình kinh tế xã hội và bình quân thu nhập tính trên đầu người; quy định khoán doanh thu và thu nhập tính thuế đối với cá nhân, hộ gia đình kinh doanh nhưng không duy trì sổ sách kế toán, chế độ hóa đơn chứng từ; quy định tính thuế thu nhập của cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán chưa hợp lý dẫn đến người chuyển nhượng chứng khoán bị lỗ vẫn phải nộp thuế, v.v.

Thuế TNCN là một trong những sắc thuế có tính ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Trong khi đó đối tượng nộp thuế thì những cá nhân cư trú chiếm tỷ lệ lớn trong số đối tượng nộp thuế mà trong đó phần lớn là người Việt Nam nên khi mà vẫn còn những ý kiến về sự bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế hoặc sự bất hợp lý trong cách tính thuế đối với các khoản thu nhập của cá nhân thì khi ấy hiện tượng tiêu cực như trốn thuế, né thuế, gian lận thuế vẫn có cơ hội thực hiện và hậu quả là Nhà nước sẽ mất một nguồn thu ngân sách không nhỏ. Bên cạnh đó, tâm lý tin tưởng ổn định của người dân vào chính sách nhà nước, yếu tố giúp tạo nên sự ổn định chung cho toàn xã hội khó mà giữ vững.

Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam” để phân tích sâu hơn những nguyên nhân phải bảo vệ người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú, những ưu điểm cũng như những vấn đề còn tồn tại trong việc bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật về thuế TNCN của Việt Nam từ đó mong muốn đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật thuế TNCN của Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1 Mục tiêu tổng quát

Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân góp phần mang lại một cách nhìn toàn diện về những ưu điểm, nhược điểm của Luật

thuế TNCN nói chung, những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo ra một sắc thuế có tính thực tiễn, được người nộp thuế tự nguyện chấp hành và nguồn thu của ngân sách nhà nước từ thuế TNCN được bảo đảm.

2.2 Mục tiêu cụ thể

Mục tiêu cụ thể của đề tài là phân tích hiện trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam đặt trong sự so sánh giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, trong đó sẽ nêu các kết quả đã đạt được, những quy định còn bất cập và những kiến nghị để khắc phục các vấn đề đó.

3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Cho đến nay đã có nhiều luận văn thạc sĩ, công trình khoa học nghiên cứu về thuế TNCN. Các công trình này được viết ở hai thời kỳ là (i) giai đoạn Luật thuế TNCN chưa có hiệu lực thi hành như luận án tiến sĩ với đề tài là “Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” năm 1995 của tác giả Vũ Văn Trường; luận văn thạc sĩ với đề tài là “Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” năm 2006 của tác giả Mai Đình Lâm và (ii) giai đoạn Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2009 và các văn bản sửa đổi Luật thuế TNCN từ đó đến nay như luận án tiến sĩ với đề tài là: “Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam” năm 2012 của tác giả Trần Minh Đức; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Xây dựng mức giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam” năm 2011 của tác giả Phan Thị Tố Như, luận văn thạc sĩ với đề tài là “Hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” năm 2011 của tác giả Lưu Thị Thu An; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay” năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn

thiện thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay” năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, v .v.

Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam - 2

Phần lớn các công trình đều tiếp cận thuế TNCN dưới góc độ quản lý thuế nhằm nêu lên những phương hướng, giải pháp để Nhà nước có thể thu đủ thuế, nhằm giải quyết vấn nạn trốn thuế, né thuế hoặc gian lận trong nộp thuế. Một cách tiếp cận khác là nghiên cứu phân tích đánh giá từng nội dung trong quy định của luật thuế như vấn đề công bằng của pháp luật thuế TNCN, thu nhập chịu thuế TNCN, thu nhập miễn thuế TNCN, phương thức xây dựng mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN hoặc thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú, v.v. Tuy nhiên, ít có công trình nào tiếp cận thuế TNCN dưới góc độ người nộp thuế và bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế, cụ thể là cá nhân cư trú. Ngoài việc làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú, phân tích và đánh giá thực trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú, luận văn cũng so sánh quy định của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam một số quy định về thuế TNCN đối với cá nhân cư trú như cách xác định đối tượng cư trú, quy định về loại thu nhập chịu thuế, quy định về các khoản giảm trừ đối với người nộp thuế của một số quốc gia tại Châu Á và các bài học kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về thuế TNCN đối với các cá nhân cư trú (bao gồm người Việt Nam và người nước ngoài) theo quy định của luật thuế TNCN tại Việt Nam, bao gồm các nội dung chính như sau: quy định về đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, xác định chịu thuế và tính thuế đối với cá nhân cư trú, biểu thuế suất lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình, khấu trừ, kê khai và nộp thuế TNCN.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài không có giới hạn về không gian vì quy định của luật thuế TNCN được áp dụng chung trên toàn quốc từ năm 1991; tuy nhiên, về mặt thời gian thì luận văn tập trung phân tích các quy định của Luật thuế TNCN 2007 có hiệu lực thi hành chính thức ngày 01/01/2009 và các nội dung sửa đổi, bổ sung của luật thuế TNCN năm 2012, có hiệu lực thi hành chính thức kể từ ngày 01/7/2013.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài sẽ dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp khác sẽ được sử dụng trong quá trình chuẩn bị luận văn bao gồm: phương pháp so sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và tổng hợp...

6. Nội dung khóa luận

Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế TNCN và bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú

Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật Việt Nam

Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật về thuế TNCN để bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú tại Việt Nam.

Kết luận

Tài liệu tham khảo

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TNCN VÀ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƯ TRÚ

1.1 Những vấn đề lý luận về thuế TNCN

1.1.1 Khái niệm thuế TNCN

Để có nguồn vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ phận của cải của xã hội. Để huy động tập trung nguồn của cải xã hội, nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng góp tự nguyện hoặc vay, trong đó, biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội được gọi là thuế.

Với phạm vi tác động rộng rãi lên hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống thuế của các quốc gia được xây dựng linh hoạt với chức năng và đối tượng chịu tác động riêng biệt. Cách phân loại phổ biến nhất hiện nay đó là dựa trên căn cứ đối tượng bị đánh thuế hay đối tượng chịu thuế, theo đó sắc thuế hiện nay được phân loại thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản.

Thuế thu nhập là tên gọi chỉ những sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.

Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Thuế thu nhập gồm hai loại là thuế TNDN và thuế TNCN dựa trên cơ sở đối tượng nộp thuế là cá nhân hay tổ chức có thu nhập chịu thuế. Lần đầu tiên được biết đến tại Anh năm 1779, thuế TNCN là một sắc thuế nhằm tập trung của cải nhân dân để phục vụ cuộc chiến tranh chống Napoleon. Về sau, với

yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước, hàng rào thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ phải được xóa bỏ để san bằng thuế đánh vào hàng hóa trong nước và nhập khẩu khiến cho một phần của khoản thu của NSNN bị giảm xuống. Trong tình hình đó, để tăng nguồn thu cho NSNN, nhằm đáp ứng những nhu cầu chi tiêu của chính phủ thì các loại thuế khác cần phải được phát huy tác dụng.

Khi trình độ kinh tế ngày càng phát triển thì thuế thu nhập ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong tổng số thu về thuế. Trên thế giới, nguồn tài chính đóng góp lớn nhất vào NSNN của các quốc gia phát triển là khoản thuế thu được từ TNCN.

Thuế TNCN là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này mọi cư dân trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Bất kỳ một quốc gia có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ các lý do sau đây:

Thứ nhất, thuế TNCN ra đời xuất phát từ yêu cầu bảo đảm sự cộng bằng trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường khi sự phân hóa giàu nghèo là điều khó tránh khỏi, thuế TNCN sẽ là một biện pháp tốt để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong xã hội mà vẫn đảm bảo tính công bằng trong đóng góp của cá nhân cho xã hội. Thuế TNCN đánh vào thu nhập của cá nhân dựa trên các nguyên tắc “lợi ích”, “công bằng” và “khả năng nộp thuế”. Theo nguyên tắc lợi ích kinh tế học công cộng, công dân phải có nghĩa vụ nộp thuế để được hưởng những lợi ích do nhà nước mang lại, thí dụ hệ thống pháp luật, quốc phòng, an ninh-trật tự, dịch vụ, hàng hóa công…Thuế TNCN đảm bảo tính “công bằng” theo cả

chiều ngang và chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang được hiểu là những người có thu nhập như nhau và có hoàn cảnh tương tự nhau thì phải nộp thuế như nhau, công bằng theo chiều dọc là những người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem xét “khả năng nộp thuế” của đối tượng nộp thuế để đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế, vì người dân không thể nộp thuế khi thu nhập của họ còn chưa đảm bảo được duy trì cuộc sống tối thiểu. Trên ý nghĩa đó, thuế TNCN là sắc thuế đảm bảo tính công bằng, hợp lý và hiệu quả trong phân phối thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội.

Thứ hai, do nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng tăng trong điều kiện chức năng của nhà nước ngày càng mở rộng. Hơn nữa, cùng với việc ký kết và tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương về tự do hóa thương mại dẫn đến nguồn thu từ thuế xuất khẩu giảm đi đáng kể. Điều đó đặt ra nhu cầu tăng cường các nguồn thu quan trong trong tổng thu NSNN. Vì thuế TNCN có diện chịu thuế khá rộng, khả năng tạo nguồn thu cho NSNN cao nhất, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, thuế TNCN có độ co giãn theo thu nhập tương đối lớn nên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các đối tượng nộp thuế cũng không ngừng tăng lên, nếu có chính sách động viên hợp lý, ổn định thì không cần phải thường xuyên thay đổi mà vẫn thu được số thu mong muốn. Do sự ổn định trong mức huy động thuế đã tạo một môi trường phù hợp với mục tiêu kinh tế dài hạn của quốc gia, góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu được nhiều lợi nhuận, tạo ra mức thu nhập ngày càng cao làm gia tăng nguồn thu cho NSNN.

Thứ ba, thuế TNCN được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, kích thích tiết kiệm và đầu tư theo hướng nâng cao năng lực hiệu quả xã hội. Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của

những đối tượng có thu nhập cao và phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp hơn. Bên cạnh đó, thông qua những chính sách miễn giảm, hỗ trợ, ưu đãi…thuế TNCN có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tieu điều chỉnh kinh tế nhà nước.

Thứ tư, thuế TNCN lũy tiến còn có tác dụng bù lại sự lũy thoái của các loại thuế tiêu dùng. Tính chất lũy thoái của thuế tiêu dùng được thể hiện: nếu người giàu và người nghèo cùng một sản phẩm đều chịu thuế tiêu dùng như nhau. Vì vậy, thuế TNCN được coi là một sắc thuế có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo tính công bằng của hệ thống thuế.

Như vậy, từ các phân tích trên thì có thể định nghĩa: thuế TNCN là sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.

1.1.2 Đặc điểm của thuế TNCN

Thuế TNCN có những đặc điểm cơ bản như sau:

1.1.2.1 Thuế TNCN là thuế trực thu

Thuế trực thu là loại thuế mà chủ thể nộp thuế cũng đồng thời là chủ thể phải chịu thuế, nghĩa là chủ thể nộp thuế sẽ mất một phần thu nhập của chính mình vì thuế.

Thuế TNCN là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu thuế là người nộp thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực tiếp từ thu nhập của cá nhân đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng hoặc chủ thể trung gian khác.

Do thuế trực tiếp tác động vào thu nhập, tài sản của cá nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều hòa thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lơp dân cư. Tuy nhiên, thuế trực thu có hạn chế là dễ gây phản ứng từ phía đối tượng chịu thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/12/2022