gia đình phổ biến hay tên pháp nhân.
- Các nhãn hiệu chỉ bao gồm các dấu hiệu (từ ngữ hoặc hình dạng) rất đơn giản và phổ biến. Cũng giống như pháp luật Việt Nam, loại này bao gồm các hình tròn, tam giác xuôi, tam giác ngược, hình vuông, hình khối đơn giản, các chữ cái đơn lẻ, các chữ cái kết hợp đơn giản.
- Các nhãn hiệu gồm các dấu hiệu chỉ ra nguồn gốc xuất xứ của rượu vang hay rượu mạnh của Nhật Bản do cục trưởng Cục SHCN quy định hay các nhãn hiệu chỉ ra nguồn gốc xuất xứ của rượu vang hay rượu mạnh của các nước thành viên WTO.
- Các dấu hiệu chỉ bao gồm các hình dạng ba chiều của hàng hóa hay bao bì của chúng mà những hình dạng này là những hình dạng bắt buộc không thể khác được để hàng hóa hay bao bì của nó thực hiện đúng chức năng của mình. Các hình dạng đó là bắt buộc một cách tự nhiên đối với hàng hóa hay bao gói của chúng, do đó không nhà phân phối hay sản xuất nào độc quyền đăng ký và sử dụng thông qua nhãn hiệu (Điều 4 Luật nhãn hiệu).
Pháp luật Mỹ quy định một số trường hợp khác mà dấu hiệu có thể thiếu tính phân biệt để được đăng ký bảo hộ như một nhãn hiệu: một nhãn hiệu chỉ ra xuất xứ của sản phẩm là rượu vang hay rượu manh khác với xuất xứ thực của loại rượu đó và lần đầu tiên được người đăng ký sử dụng đối với loại rượu đó sau một năm kể từ khi thỏa thuận WTO có hiệu lực đối với Mỹ; một nhãn hiệu sẽ bị coi thiếu tính phân biệt nếu nó chỉ mang tính chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý của hàng hóa hoặc chỉ đơn giản là họ gia đình phổ thông; nhãn hiệu bao gồm tên, chân dung hay chữ ký xác định của một cá nhân nhất định mà không được sự đồng ý bằng văn bản của cá nhân đó (Điều 2 Luật nhãn hiệu).
Pháp luật Trung Quốc “các dấu hiệu chỉ dẫn đến các tên địa lý được nhiều người biết đến (nổi tiếng với công chúng) hoặc các dấu hiệu có tính chất thổi phồng, khuếch đại và sai lệch khi quảng cáo hàng hóa thì không được đăng ký dưới danh nghĩa nhãn hiệu” (Điều 10 Luật nhãn hiệu Trung Quốc)
Pháp luật Anh nhãn hiệu không được đăng ký khi có bản chất lừa dối công chúng (như về bản chất, chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa và dịch vụ (Điều 3.1c.3b Luật nhãn hiệu Anh)
4.2.3 Các trường hợp không được bảo hộ vì các lý do khác
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Bảo Hộ Nhãn Hiệu Ở Việt Nam
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật nước ngoài - 5
- Các Trường Hợp Không Được Bảo Hộ Do Thiếu Tính Phân Biệt.
- Nhãn Hiệu Liên Kết Và Nhãn Hiệu Nổi Tiếng
- Những Lợi Ích Của Việc Bảo Hộ Nhãn Hiệu Ra Nước Ngoài.
- Xác Lập Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu.
Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.
Đây là điều kiện để loại trừ không cấp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho dù dấu hiệu có tính phân biệt nhưng nếu cấp đăng ký bảo hộ sẽ trái với yêu cầu bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội và có tính lừa dối. Dưới đây là một số dạng dấu hiệu không được đăng ký bảo hộ theo pháp luật các nước:
* Dấu hiệu có tính lừa dối (deceive)
Dấu hiệu có tính lừa dối không được đăng ký bảo hộ là quy định chung trong pháp luật về nhãn hiệu ở hầu hết các nước nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi sự lừa dối về bản chất, chất lượng hay bất kỳ đặc điểm nào khác của hàng hóa hay nguồn gốc địa lý vì lợi nhuận bằng mọi giá của người kinh doanh.
Pháp luật Việt Nam quy định “Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ” khoản 5 Điều 73 Luật SHTT 2005.
Pháp luật Anh quy định “nhãn hiệu gây tác dụng lừa dối công chúng về bản chất, chất lượng, nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ sẽ không được bảo hộ” Điều 3.3.b Đạo luật Nhãn hiệu 1994. Quy định này về cơ bản giống với quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo Pháp luật Trung Quốc thì: nhãn hiệu sẽ không được đăng ký và sẽ bị cấm sử dụng nếu nhãn hiệu đó mang chỉ dẫn địa lý về hàng hóa trong khi hàng hóa không có xuất xứ từ khu vực đó nhằm lừa dối người tiêu dùng, theo Điều 16 Luật Nhãn hiệu Trung Quốc.
Pháp luật Nhật Bản cũng chỉ đề cập đến nhãn hiệu có tính chất lừa dối người tiêu dùng về chất lượng của hàng hóa hoặc dịch vụ thì bị cấm.
Pháp luật Hoa Kỳ chỉ dừng lại ở các quy định mang tính nguyên tắc là nhãn hiệu để được phép đăng ký không được gây ra hiểu lầm hay lừa dối và để một biên độ rất rộng cho các nhà áp dụng pháp luật khi tiến hành áp dụng pháp luật trên thực tế. Điều 2.a,e.1 Luật Nhãn hiệu Mỹ quy định các nhãn hiệu bao gồm những dấu hiệu dối trá sẽ không được bảo hộ theo pháp luật Mỹ, ngoài ra nhãn hiệu mang tính mô tả hàng hóa một cách không chính xác nhằm lừa dối cũng bị cấm. Ngoại lệ, khi nhãn hiệu mô tả không chính xác nhằm đánh lừa nhưng quá trình sử dụng lâu dài đã tạo ra tính phân biệt đối với người tiêu dùng.
* Dấu hiệu trái ngược với giá trị đạo đức và lợi ích công cộng
Pháp luật từ chối bảo hộ nhãn hiệu khi có dấu hiệu đi ngược giá trị đạo đức và lợi ích công cộng. Các dấu hiệu thuộc loại này thường là các dấu hiệu có tính chất khiêu dâm, phân biệt chủng tộc, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm đạo đức của người khác hoặc của quốc gia nào đó.
Pháp luật Nhật bản và Mỹ cấm các nhãn hiệu có tính khiêu dâm, phân biệt chủng tộc, xúc phạm mọi người, các dấu hiệu vi phạm đạo đức và lợi ích công cộng, các nhãn hiệu nhằm lăng nhục con người hoặc quốc gia nào đó.
Pháp luật Anh, Trung Quốc về cơ bản giống với quy định của pháp luật Mỹ và Nhật Bản, tuy nhiên mức độ đề cập ở những khía cạnh khác nhau. Pháp luật Anh thiên về nhãn hiệu đi ngược lại với chính sách công cộng hay các nguyên tắc đã được công nhận về đạo đức, theo Điều 3.3.a Đạo Luật nhãn hiệu 1994. Trong khi đó pháp luật Trung Quốc hướng đến những dấu hiệu không được sử dụng làm nhãn hiệu khi có sự phân biệt đối xử nhằm chống lại bất kỳ dân tộc nào, gây thiệt hại đến lợi ích xã hội, hải quan hoặc có những ảnh hưởng không lành mạnh khác theo Điểm 6,8 Điều 10 Luật nhãn hiệu Trung Quốc.
* Dấu hiệu liên quan đến quyền tuyệt đối của quốc gia về các loại biểu tượng nhà nước và quyền sử dụng các biểu trưng của các tổ chức quốc tế
Pháp luật các nước có quy định tương đối giống nhau về vấn đề này phù hợp với tinh thần của Điều 6ter Công ước Paris về việc bảo hộ các biểu trưng chính thức của các nước thành viên khác và các tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Các trường hợp cụ thể này bao gồm:
- Dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra bảo hành.....của các thiết chế Nhà nước, nước ngoài cũng như Tổ chức quốc tế;
- Dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh),hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của các quốc gia cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan có thẩm quyền cho phép;
- Các nhãn hiệu giống hoặc tương tự như cờ quốc gia, gù mào gà của đế vương, huân chương, huy chương, huy chương danh dự, cờ quốc gia nước ngoài.
- Các nhãn hiệu tương tự các biểu tượng quốc gia khác ngoài quốc kỳ của các nước là thành viên công ước Paris.
- Nhãn hiệu tương tự hoặc dấu hiệu chữ thập đỏ trên nền trắng của tổ chức nhân đạo quốc tế.
* Bảo lưu sử dụng của các cá nhân
Pháp luật Mỹ (Điều 2 Luật nhãn hiệu) và Việt Nam đều quy định cụ thể các trường hợp dấu hiệu trùng với tên, chân dung hay chữ ký của một người cụ thể thường bị coi là xâm phạm quyền tự do cá nhân của công dân được ghi nhận trong hiến pháp các nước, do đó không có sự đồng ý của thân chủ thì các dấu hiệu không được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Trong khi đó pháp luật Anh, Nhật Bản, Trung Quốc không quy định vấn đề này.
5. Các loại nhãn hiệu.
Việc phân loại nhãn hiệu có ý nghĩa rất lớn, không chỉ về mặt lý luận mà cả trong thực tiễn. Trước hết, phân loại nhãn hiệu cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu, đặc trưng này không chỉ ảnh hưởng tới yếu tố cảm nhận nhãn hiệu
trong người tiêu dùng, tới tính chất của việc sử dụng nhãn hiệu mà còn ảnh hưởng tới cả quá trình đăng ký nhãn hiệu đó. Phân loại nhãn hiệu còn ảnh hưởng tới việc xác định chế độ pháp lý đối với từng loại nhãn hiệu và giúp cho việc phân loại nhãn hiệu với các đối tượng SHCN khác (Kiểu dáng công nghiệp, Tên thương mại, sáng chế...).
Dựa vào loại dấu hiệu được sử dụng làm dấu hiệu, người ta chia nhãn hiệu thành dấu hiệu từ ngữ, dấu hiệu chữ cái, dấu hiệu số, dấu hiệu hình, dấu hiệu màu sắc, dấu hiệu âm thanh. Việc phân chia theo tiêu chí này cho phép chúng ta xác định được phạm vi các dấu hiệu có thể được pháp luật bảo hộ và đánh giá được tính mở của quy định pháp luật về khái niệm nhãn hiệu. Nó phản ánh sự lựa chọn của các nước trong việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi bảo hộ nhãn hiệu. Đồng thời, nó cũng phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế của quốc gia đã ban hành ra các quy định pháp luật đó.
Căn cứ vào mức độ phân biệt trong tính phân biệt của nhãn hiệu, người ta chia nhãn hiệu thành nhãn hiệu có tính phân biệt cố hữu và nhãn hiệu có tính phân biệt bằng ý nghĩa thứ cấp. Việc phân chia theo tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định khả năng được đăng ký bảo hộ của nhãn hiệu.
Do mục đích thực tiễn của việc sử dụng nhãn hiệu trong hoạt động thương mại nên pháp luật các nước thường đề cập đến các loại nhãn hiệu sau: nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết và nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, mức độ đề cập trong hệ thống pháp luật của mỗi nước cho từng loại nhãn hiệu là khác nhau.
5.1 Nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) và nhãn hiệu dịch vụ (NHDV)
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường là sự phong phú, đa dạng của các loại hàng hóa, dịch vụ, vì thế người tiêu dùng luôn phải đối mặt với việc lựa chọn loại hàng hóa, dịch vụ mình cần. Pháp luật Việt Nam, Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản khi đề cập tới nhãn hiệu đề có sự phân biệt giữa NHHH và NHDV. Sự khác nhau giữa NHHH và NHDV ở chỗ NHHH là nhãn hiệu được sử dụng để phân
biệt các sản phẩm là hàng hóa cạnh tranh còn nhãn hiệu dịch vụ là nhãn hiệu được dùng để phân biệt các dịch vụ cạnh tranh. Tuy nhiên, về cơ bản NHHH và NHDV giống nhau về bản chất vì NHDV cũng mang đầy đủ chức năng biểu hiện nguồn gốc và phân biệt đối với dịch vụ cũng như các chức năng tương tự của NHHH đối với hàng hóa
Theo quy định của pháp luật Mỹ, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc thì NHDV được đăng ký, gia hạn, hủy bỏ theo cùng một cách như NHHH và được chuyển giao hoặc cấp phép sử dụng theo cùng những điều kiện như NHHH.
Ở Việt Nam, trước đây, thuật ngữ NHDV được đề cập đến trong Nghị định 63/Chính phủ: "NHHH bao gồm cả NHDV (khoản 1 Điều 6, Chương II). Đến Luật SHTT năm 2005, các nhà làm luật không tách bạch giữa khái niệm NHHH và NHDV mà quy định một cách khái quát: nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức cá nhân khác nhau. Như vậy, trong khái niệm nhãn hiệu đã bao hàm cả NHDV.
5.2 Nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận
5.2.1 Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu thuộc về một hiệp hội mà hiệp hội đó không sử dụng nhãn hiệu nhưng những thành viên của hiệp hội có quyền sử dụng nhãn hiệu đó nếu họ tuân thủ những yêu cầu trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Vì vậy, nhãn hiệu tập thể có chức năng thông báo cho công chúng biết những đặc điểm đặc trưng của các sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể. Đương nhiên, việc sử dụng nhãn hiệu tập thể không ngăn cản các thành viên của hiệp hội có những nhãn hiệu riêng của mình.
Nhãn hiệu tập thể đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng, do đó khi đăng ký nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể phải được nộp cho cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhãn hiệu. Bất kỳ sự sửa đổi nào đối với quy chế sử dụng cũng phải được thông báo cho cơ quan này. Tại nhiều nước trên thế giới, đăng ký nhãn hiệu tập thể sẽ bị huỷ bỏ nếu việc sử dụng nhãn hiệu tập
thể trái với các quy định của quy chế sử dụng hoặc việc sử dụng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Nhãn hiệu tập thể được ghi nhận tại Điều 7bis, Công ước Paris năm 1883. Tuy nhiên, Công ước này không đưa ra khái niệm về nhãn hiệu tập thể, cũng không quy định về cách thức bảo hộ. Nó chỉ quy định các nước thành viên bảo hộ loại nhãn hiệu này một cách chung chung, theo đó (1) các nước thành viên chấp nhận đơn đăng ký và bảo hộ các nhãn hiệu tập thể thuộc về các tập thể mà sự tồn tại của các tập thể đó không trái với pháp luật của nước xuất xứ ngay cả khi các tập thể đó không có cơ sở công nghiệp và thương mại,(2) mỗi nước phải tự xác định các điều kiện cụ thể để nhãn hiệu tập thể được bảo hộ và có thể từ chối bảo hộ nếu nhãn hiệu đó trái với lợi ích công cộng và (3) việc bảo hộ này không thể bị từ chối đối với tập thể mà sự tồn tại của tập thể đó không trái với pháp luật của nước xuất xứ, với lý do tập thể đó không được thiết lập tại nước được yêu cầu bảo hộ hoặc không được thiết lập tại nước đó.
Theo quy định của pháp luật Mỹ, nhãn hiệu tập thể có thể là nhãn hiệu hàng hóa hay nhãn hiệu dịch vụ được sử dụng hoặc dự định sử dụng trong thương mại bởi các thành viên của một hiệp hội, các nhóm hay tổ chức tập thể khác, hoặc được hiệp hội, nhóm tập thể khác này có ý định chân thành trong việc sử dụng nó với mục đích thương mại và xin đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và bao gồm các nhãn hiệu chỉ ra mối quan hệ thành viên trong liên minh, trong hiệp hội hay trong tổ chức tập thể (Điều 45 Luật nhãn hiệu).
Do đó, nhãn hiệu tập thể được phân làm hai loại. Thứ nhất, nhãn hiệu tập thể dưới dạng NHHH hay NHDV được đăng ký và sử dụng bởi một tổ chức tập thể và thành viên của tổ chức tập thể, có chức năng phân biệt nguồn gốc thương mại của sản phẩm mang nhãn hiệu của bản thân tổ chức tập thể. Thứ hai, nhãn hiệu tập thể được gọi là nhãn hiệu tư cách thành viên tập thể, chúng được sử dụng bởi các thành viên của một tổ chức tập thể với mục đích chỉ ra tư cách thành viên trong tổ chức đó, người trực tiếp có quyền gắn nhãn hiệu đó lên sản phẩm là các tổ chức thành viên. Vì vậy giữa các thành viên phải có quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể.
Không giống như pháp Luật Mỹ, pháp luật Anh, Trung Quốc và Nhật Bản chỉ quy định nhãn hiệu tập thể được sử dụng bởi các thành viên của tổ chức tập thể.
Pháp luật Anh quy định “nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các thành viên một hiệp hội là chủ sở hữu của nhãn hiệu đó với doanh nghiệp khác” Điều 49.1 Luật Nhãn hiệu 1994. Ngoài ra nhãn hiệu tập thể còn được đề cập ở Mục lục 1-Schedule Luật Nhãn hiệu 1994 với các khía cạnh:
(1) nhãn hiệu tập thể có thể được phép chỉ rõ nguồn gốc địa lý của hàng hóa hoặc dịch vụ trong thương mại (Mục lục 1-Schedule 1); (2) tuy nhiên chủ sở hữu không có quyền cấm người khác sử dụng những dấu hiệu chỉ ra nguồn gốc địa lý tương tự trên sản phẩm của họ vì mục đích thương mại; (3) người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể sẽ phải nộp cho cơ quan đăng ký bản quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể đó. Bản quy chế phải ghi rõ những người nào được phép sử dụng nhãn hiệu, điều kiện trở thành thành viên hiệp hội và các điều kiện sử dụng nhãn hiệu kể cả chết tài nếu có.
Pháp luật Nhật Bản quy định nhãn hiệu tập thể được sử dụng chung bởi các thành viên của một tổ chức tập thể, với trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản là khi đăng ký nhãn hiệu tập thể tổ chức kinh tế tập thể chỉ cần điền vào mẫu đơn đăng ký được làm sẵn và nộp các tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân của mình, còn việc nộp quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể chỉ khi cơ quan thẩm quyền đăng ký yêu cầu thấy cần thiết (Điều 7 ;7-2 Luật nhãn hiệu).
Tương tự như pháp luật Nhật Bản và Anh, Pháp luật Trung Quốc cũng chỉ công nhận nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu được đăng ký dưới tên cơ quan, hiệp hội và tổ chức khác, được các thành viên của tổ chức sử dụng trong hoạt động thương mại nhằm chỉ ra thành viên được sử dụng nhãn hiệu của tổ chức, Điều 3 Luật Nhãn hiệu Trung Quốc.
Ở Việt Nam trước đây nhãn hiệu tập thể không được quy định trong Bộ luật dân sự 1995 mà được đề cập đến trong Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về SHCN và Thông tư 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học,