Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam phải thể hiện được những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người
Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới quyền con người. Bảo vệ, phát triển quyền con người không chỉ là một nhiệm vụ lớn hiện nay mà chính là lý tưởng phấn đấu của những người Cộng sản, là bản chất của chế độ XHCN, là cốt lòi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quyền con người được xác định là những tư tưởng chỉ đạo, áp dụng thống nhất trong suốt quá trình xây dựng, thực hiện quyền con người. Những quan điểm này được thể hiện một cách trực tiếp, gián tiếp trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam, trực tiếp nhất là chỉ thị số 12 CT/ TW ngày 12/7/1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta. Nội dung nổi bật trong quan điểm của Đảng về quyền con người là các vấn đề liên quan tới bản chất, đặc điểm quyền con người, các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người.
Theo đó, quyền con người là sự kết tinh các giá trị nhân bản trong nền văn hoá của các dân tộc, là kết quả đấu tranh của nhân loại, đặc biệt là nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống áp bức, giành độc lập dân tộc, chống bất công và bình đẳng xã hội. Quyền con người
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 9
- Thực Trạng Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk Liên Quan Tới Bảo Đảm Quyền Con Người
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 11
- Đổi Mới Hệ Thống Các Cơ Quan, Tổ Chức Tham Gia Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 14
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 15
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
có sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính đặc thù, có sự thống nhất cơ bản giữa quyền con người và quyền dân tộc. Quan điểm của Đảng cũng khẳng định quyền con người vừa có tính giai cấp đồng thời là giá trị nhân loại, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội văn hoá và truyền thống của dân tộc, quyền con người phải được bảo vệ bằng chế độ pháp luật. Phát huy nhân tố con người, tôn trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Tăng cường bảo đảm quyền con người hiện nay ở Việt nam gắn bó chặt chẽ với phát huy dân chủ, phát triển kinh tế, bảo đảm thực hiện chính sách xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền và nâng cao trình độ dân trí, quyền được thông tin của con người. Trong giai đoạn hiện nay, hoàn thiện pháp luật về quyền con người phải gắn với công cuộc cải cách tư pháp, với chiến lược xây dựng pháp luật tới năm 2020 của Bộ Chính trị trên cơ sở:
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN và Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người [3].
Yêu cầu của chiến lược xây dựng pháp luật tới năm 2020 cũng đòi hỏi hệ thống pháp luật về quyền con người phải đầy đủ, thống nhất và phù hợp với thực tiễn quyền con người ở Việt Nam, phải “Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật” [2].
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người trên cơ sở quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người là một yêu cầu tất yếu khách quan nhằm bảo đảm cho hoạt động này diễn ra theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước ta, các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người đưa ra được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, nhân dân thêm hiểu biết về lý tưởng vì con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người phải thể hiện được tư tưởng chỉ đạo này, làm cho pháp luật về quyền con người phát huy hiệu quả trên thực tế.
3.1.2. Tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam phải phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia
Quyền con người vừa có tính phổ biến nhưng cũng có tính đặc thù. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người dù muốn hay không cũng không thể được thực hiện ngay lập tức. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chiến lược xây dựng pháp luật tới năm 2020 cũng khẳng định việc hoàn thiện pháp luật phải: “Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật” [2].
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong xây dựng pháp luật Việt Nam về quyền con người, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người cũng phải được xác định trên tinh thần như vậy, phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam chứ không thể so sánh với quốc gia khác. Có như vậy, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người mới có giá trị thực sự. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người phải phù
hợp với các điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội văn hoá, truyền thống pháp lý của dân tộc, đồng thời phải tính đến những mâu thuẫn nội tại khó giải quyết giữa mục tiêu lý tưởng cần đạt tới, chính sách pháp luật hiện tại và thực tế đất nước.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người cũng phải phù hợp với quy định trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đây được coi là những chuẩn mực quốc tế phổ biến về quyền con người. Thực hiện điều này không chỉ có ý nghĩa hiện thực hoá quyền con người mà nó còn thể hiện truyền thống, quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ các giá trị của quyền con người.
3.1.3. Tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam trên cơ sở đổi mới tư duy pháp lý nhận thức đúng mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật và quyền con người
Khác với các kiểu Nhà nước bóc lột tồn tại trong lịch sử, Nhà nước XHCN nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng luôn coi nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là mục đích của việc xây dựng xã hội, mà ở đó quyền con người được bảo đảm. Nhận thức đúng mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật và quyền con người có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng, thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người, khắc phục những nguyên nhân vi phạm. Đồng thời, đây còn là cơ sở nhận thức quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền con người. Là sự trang bị về tư tưởng quan trọng để mọi cá nhân, ý thức được quyền con người của mình, đấu tranh hiệu quả với các vi phạm pháp luật về quyền con người.
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xét trên phương diện này, vai trò của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người được thể hiện ở hai khía cạnh:
Một là, Nhà nước là tổ chức công quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, nên Nhà nước có thẩm quyền ban hành, pháp luật quy định những nội dung cụ thể về quyền con người, quyền công dân và bắt buộc các công dân phải thực hiện. Thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước là nghĩa vụ của mọi công dân.
Hai là, Nhà nước là một tổ chức công quyền phải phục vụ xã hội, Nhà nước phải thừa nhận những giá trị của quyền con người.
Xét ở cả hai khía cạnh trên, Nhà nước đều phải là công cụ thực hiện, bảo vệ quyền con người. Nhà nước không được tuỳ tiện quy định về quyền con người mà phải thừa nhận những giá trị xã hội khách quan của quyền con người trong điều kiện lịch sử cụ thể. Trong mối quan hệ về quyền con người, công dân phải chiếm ưu thế so với Nhà nước, Nhà nước phải phục vụ công dân.
Pháp luật của Nhà nước Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội. Nhưng nội dung của pháp luật đó phải phản ánh các quy luật khách quan của xã hội. Nhà làm luật không được nghĩ ra luật một cách duy ý chí mà phải phát hiện ra luật từ thực tiễn cuộc sống. Với quan điểm nhất quán như vậy, pháp luật Việt Nam phải có nội dung tôn trọng quyền con người vì quyền con người là một giá trị xã hội khách quan. Trên bình diện này, pháp luật cũng phải thể hiện hai khía cạnh.
Một là, pháp luật là phương tiện thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc xác định nội dung quyền con người. Pháp luật đó phải phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước tức là phải có nội dung giá trị xã hội khách quan.
Hai là, pháp luật phải là công cụ để nhân dân sử dụng, bảo vệ quyền con người của mình. Pháp luật là căn cứ để nhân dân đánh giá kiểm tra các hành vi vi phạm quyền con người của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân khác. Để nhân dân có thể sử dụng pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì cần phải có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh để
nhân dân dễ thực hiện. Có thể thấy ở cả hai khía cạnh trên, pháp luật đều vì quyền con người.
Như vậy nhận thức mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật và quyền con người cần được quán triệt dựa trên các nguyên tắc sau:
- Nhà nước, pháp luật là công cụ phương tiện để thực hiện, bảo vệ quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam. Xây dựng Nhà nước, pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người nói riêng đều phải hướng đến mục tiêu vì con người, thực hiện bảo vệ con người.
- Các quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật Việt Nam về quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam phải phù hợp với những quy luật khách quan của xã hội hiện thực, được quy định trong hiến pháp và các văn bản luật khác. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, những quyền nghĩa vụ pháp lý của công dân phải được tôn trọng tạo điều kiện thực hiện bằng một cơ chế pháp lý phù hợp. Thông qua đó, thể hiện được đặc trưng dân chủ, nguyên tắc pháp chế XHCN trong mối quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân.
3.2. Các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS Việt Nam
Để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, Nhà nước phải ban hành một số quy định hạn chế quyền con người của người tham gia tố tụng. Quyền con người trong TTHS gắn rất chặn chẽ với các biện pháp cưỡng chế được quy định và áp dụng trong TTHS, đặc biệt là biệt pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.
Tuy nhiên, các biện pháp cưỡng chế cần quy định và thực hiện ở mức độ cần và đủ để phát hiện, xử lý tội phạm, người phạm tội nhưng vẫn tôn
trọng quyền con người. Để đạt được mục tiêu trên, theo chúng tôi cần phải hoàn thiện các quy định sau của BLTTHS:
Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ (điều 48 BLTTHS), bị can (điều 49 BLTTHS), bị cáo (điều 50 BLTTHS)
Các quyền của người bị tạm giữ như được biết lý do tạm giữ, trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu… (khoản 2 điều 48), của bị can như được biết bị khởi tố về tội gì, trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhận các quyết định tố tụng… (khoản 2 điều 49), của bị cáo như nhận các quyết định tố tụng, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết định… (khoản 2 điều 50) được quy định trong BLTTHS thực chất là các nội dung khác nhau của quyền tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, quyền tự bào chữa. Trong khi đó, có những quyền quan trọng của họ trong thực tế thường bị xâm phạm và nguy cơ xâm phạm cao bằng các hình thức truy bức, dùng nhục hình, trả thù…từ phía người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng như quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự thì không được quy định trong BLTTHS. Hơn nữa, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân… là những nguyên tắc TTHS quan trọng được quy định trong BLTTHS. Thế nhưng, các nguyên tắc đó lại chưa được cụ thể hóa trong các quy định về quyền của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và tương ứng là nghĩa vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền rất quan trọng trong TTHS. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng bất kỳ biện pháp nào để bảo vệ mình khỏi sự buộc tội mà không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Trong các biện pháp đó, biện pháp giữ im lặng trong quá trình tố tụng đã được pháp
luật TTHS nhiều nước quy định. BLTTHS nước ta cũng đã đề cập đến vấn đề này tại khoản 4 điều 209, nhưng chỉ mới ở giai đoạn xét xử và nội dung cũng chưa rò ràng đây là quyền của bị cáo hay chỉ là một tình huống trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta cũng có nhiều trường hợp bị can, bị cáo giữ thái độ im lặng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nhưng thông thường sự im lặng đó được đánh giá như là sự thừa nhận tội lỗi của mình. Theo chúng tôi, đã đến lúc cần quy định quyền im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình TTHS.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng cần hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng cách:
- Bổ sung các quyền được tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thân thể, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự theo quy định của pháp luật;
- Bổ sung quyền được im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS.
- Bổ sung quyền được yêu cầu cơ quan, người tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm;
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng của họ theo quy định của pháp luật; trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người tham gia tố tụng khi có yêu cầu;
- Sửa đổi điểm d khoản 2 điều 48 BLTTHS theo hướng người bị tạm giữ có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Bởi vì, quyền tự bảo vệ (BLTTHS hiện hành quy định là quyền tự bào chữa) của người bị tạm giữ đã được cụ thể hóa trong khoản 2 điều luật này;
- Sửa đổi điểm e khoản 2 điều 49, điểm e khoản 2 điều 50 BLTTHS theo hướng bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa. Bởi vì, quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo đã được cụ thể hóa trong khoản 2 các điều luật này.