Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự - 11


nhưng không có đơn khiếu nại kêu oan; có nguyên nhân do hướng dẫn “người bị tạm giam không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật” mới được bồi thường (điểm a khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 05 ngày 02/11/2012) là có dấu hiệu thu hẹp phạm vi trường hợp được bồi thường theo quy định “Người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội” tại khoản 2 Điều 26 Luật TNBTCNN. Vì vậy, những trường hợp tạm giam sau đó chuyển xử lý hành chính do hành vi không cấu thành tội phạm đã không được tính vào diện được bồi thường.

Về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường:

Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và có thể coi là yếu tố mấu chốt trong

việc yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Viêc xác điṇ h trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước trong hoạt đông TTHS phải có các căn cứ sau:

- Có bản án, quyết điṇ h của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong

hoạt đôn

g tố tụng hình sự xác điṇ h người bị thiêt

hại thuôc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

các trường hơp

đươc

Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự - 11

bồi thường quy điṇ h tại Điều 26 của Luâṭ TNBTCNN;

- Có thiêt

hại thưc

tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với

người bị thiêṭ hại.

Như vâỵ , căn cứ xác điṇ h trách nhiêm


bồi thường của Nhà nước bắt

buôc

phải có hai điều kiên

là bản án, quyết điṇ h trong TTHS xác điṇ h người

bị thiêt

hại đươc

bồi thường và phải có thiêt

hại thưc

tế xảy ra. Đây là môt

quy điṇ h rất khó khăn trong thưc

tế thi hành Luâṭ, đăc

biêt

đối với người bị

thiêt

hại, bởi trong mối quan hê ̣bồi thường này là quan hê ̣bất bình đẳng giữa

môt

bên là Nhà nước và môt

bên là cá nhân, tổ chứ c bị thiêt

hại. Điều 9 Luât

TNBTCNN quy điṇ h người bị thiêt

hại có nghĩa vụ chứ ng minh về thiêt

hại

thưc

tế đã xảy ra. Viêc

chứ ng minh có thiêṭ hại thưc

tế xảy ra cũng là môt

vấn

đề khó khăn, bởi người bị thiêt hại là cá nhân, tổ chứ c nhưng không có công

cụ gì trong tay mà chứ ng minh là có thiêt

hại thưc

tế xảy ra. Để thuân

lơi

cho


yêu cầu của người bị thiêṭ hại, Luât TNBTCNN cần nghiên cứ u và hoàn thiên

quy điṇ h này, tạo điều kiên

thuân

lơi

trong thủ tục yêu cầu bồi thường.

Về thiệt hại được bồi thường:

Mức bồi thường trong BLDS và Luật TNBTCNN là bồi thường toàn bộ, kịp thời và cách thức bồi thường chủ yếu bằng tiền. Mức bồi thường đối với các loại thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần cho đối tượng bị thiệt hại trực tiếp và gián tiếp được căn cứ vào thiệt hại thực tế hoặc lấy mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định về các loại thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường là chưa toàn diện so với những thiệt hại mà người bị thiệt hại có khả năng phải gánh chịu. Bên cạnh đó, quy định hiện nay về việc xác minh thiệt hại trong nhiều trường hợp gây khó khăn cho việc chứng minh thiệt hại của đương sự. Do đó, cần nghiên cứu, mở rộng hơn về các thiệt hại được bồi thường và các căn cứ xác định thiệt hại.

Về các thiệt hại được bồi thường, theo quan điểm của tác giả, Luật TNBTCNN cần quy định bổ sung các nội dung sau:

- Đối với các trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù hoặc tử hình oan, ngoài việc được bồi thường những ngày bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù hoặc bị tử hình oan, họ cần được bồi thường cả những ngày tại ngoại.

- Về mức thiệt hại được bồi thường, hiện nay, Bộ luật Dân sự 2015 đã nâng mức tối đa đối với trường hợp bồi thường tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm từ “ba mươi tháng lương tối thiểu” [39, Điều 609, khoản 2] thành “năm mươi lần mức lương cơ sở” [42, Điều 590, Khoản 2]; mức tối đa đối với trường hợp bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm từ “sáu mươi tháng lương tối thiểu” [39, Điều 610, Khoản 2] thành


“một trăm lần mức lương cơ sở” [42, Điều 591, Khoản 2]. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật TNBTCNN, mức bồi thường do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm là không quá ba mươi tháng lương tối thiểu [40, Điều 47, Khoản 4] và trong trường hợp người bị thiệt hại chết là ba trăm sáu mươi tháng lương tối thiểu [40, Điều 47, Khoản 3], quy định này tại thời điểm ban hành Luật là phù hợp với Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Bộ luật Dân sự đã được thay thế với mức bồi thường cao hơn. Do đó, cần nghiên cứu, tăng mức bồi thường trong Luật TNBTCNN (sửa đổi).

- Đối với người bị “oan” mà bản thân họ có lỗi trong việc gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng, tài sản của chính mình thì họ không được bồi thường những thiệt hại do lỗi của họ gây ra. Tuy nhiên, trong trường hợp này Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm bồi thường cho họ những thiệt hại khác như: khôi phục danh dự, công khai xin lỗi, BTTH tổn thất tinh thần...

Về cơ chế xác minh thiệt hại:

Một trong những hạn chế gây “lúng túng” cho một số cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong một số trường hợp phát sinh trên thực tiễn áp dụng quy định Điều 18 Luật TNBTCNN và Nghị định số 16/2010/NĐ-CP để xác minh thiệt hại là việc pháp luật quy định “căn cứ vào tính chất, nội dung của vụ việc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường có thể tổ chức việc định giá tài sản, giám định thiệt hại về tài sản, giám định thiệt hại về sức khỏe” [11, Điều 9, Khoản 1]. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể, rò ràng những trường hợp nào thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường cần tiến hành định giá tài sản, những trường hợp nào thì cần giám định thiệt hại. Điều này dẫn đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường hiểu lầm, lúng túng hoặc áp dụng phương thức định giá, giám định đối với tài sản bị thiệt hại chưa phù hợp ảnh hưởng đến kết quả xác minh thiệt hại, một tất yếu sẽ làm ảnh hưởng tới căn cứ xác định mức bồi thường khi thương lượng đối với người bị thiệt hại. Hơn nữa việc chưa quy định cụ thể


trường hợp người bị thiệt hại về sức khỏe ở mức độ như thế nào sẽ được giám định cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả xác minh thiệt hại gây thiệt thòi cho người bị thiệt hại.

Bên cạnh đó, việc quy định thời hạn xác minh thiệt hại tối đa là 20 ngày, nếu có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh không quá 40 ngày như hiện nay là quá ngắn, khó bảo đảm được hiệu quả tối ưu của việc xác minh thiệt hại. Lẽ đương nhiên, điều này trở thành một trong những nguyên nhân gây khó khăn của quá trình thương lượng do căn cứ xác định mức bồi thường chưa sát với mức thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Do đó, đối với cơ chế xác minh thiệt hại, cần xây dựng khung thiệt hại cụ thể, rò ràng để quyết định việc thiệt hại đó có cần tổ chức định giá tài sản, giám định thiệt hại về tài sản và giám định thiệt hại về sức khỏe hay không. Đồng thời cần có quy định khung mức độ thiệt hại như thế nào thì cần kéo dài thời gian xác minh.

Về cơ quan có trách nhiệm bồi thường

Việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường hiện nay được thực hiện theo mô hình phân tán, cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ đã làm phát sinh vướng mắc trên thực tế nên đã tạo tâm lý né tránh, đùn đẩy giải quyết bồi thường giữa các CQTHTT. Mặt khác, người bị thiệt hại thường có tâm lý thiếu niềm tin vào sự khách quan của CQTHTT đã gây oan cho mình trong việc giải quyết bồi thường. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết kế mô hình cơ quan giải quyết bồi thường phù hợp giải quyết bồi thường theo cơ chế giao cho một cơ quan đầu mối tiếp nhận và thay mặt Nhà nước giải quyết bồi thường cho tổ chức, cá nhân bị thiệt hại nói chung và cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Việc giải quyết bồi thường được thực hiện tập trung bởi một cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo đảm tính chuyên môn cao, thống nhất, bảo đảm việc giải quyết bồi thường được thực hiện kịp thời, đúng pháp luật.


Về khôi phục danh dự, uy tín cho người bị thiệt hại

Điều 51 Luật TNBTCNN quy định về việc khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, tuy nhiên, chưa quy định cụ thể về trình tự, cách thức tiến hành xin lỗi, cải chính công khai. Vì vậy, có những trường hợp trên thực tế, người bị oan cũng như thân nhân của họ chưa thực sự thỏa mãn với việc được xin lỗi. Luật TNBTCNN cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể trong lĩnh vực tố tụng hình sự là Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP_BTC-BNN&PTNT ngày 02/11/2012

hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, hình thức và thành phần tham dự, chương trình của việc tổ chức xin lỗi công khai. Cũng chính vì chưa có quy định cụ thể như vậy dẫn tới tình trạng trên thực tế không có sự thống nhất giữa các buổi xin lỗi, mỗi buổi xin lỗi lại được thực hiện khác nhau, nhiều trường hợp được thực hiện qua loa, chiếu lệ gây bức xúc trong dư luận xã hội. Vì vậy, cần phải nghiên cứu để quy định cụ thể hình thức, trình tự, thủ tục xin lỗi, cải chính công khai đối với người bị oan.

Về nguồn kinh phí thực hiện việc bồi thường:

Cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chế để bảo đảm kinh phí bồi thường, theo đó, kinh phí bồi thường phải là một mục trong mục lục ngân sách, sau khi có quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Tòa án có hiệu lực pháp luật cần phải chi trả ngay tiền bồi thường cho người bị thiệt hại.

Về trách nhiệm hoàn trả và xử lý kỷ luật

Luật cũng phải quy định cụ thể, rò ràng trách nhiệm của người tiến hành tố tụng đã gây ra oan trong việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả để việc hoàn trả thực sự có ý nghĩa trong thực tế. Ngoài việc quy định trách nhiệm hoàn trả, phải quy định cụ thể trách nhiệm kỷ luật đối với người thi hành công vụ, để bảo đảm tính răn đe, tránh tình trạng gây oan, sai.


3.3. Các giải pháp khác

3.3.1. Nâng cao trình độ, năng lực trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng hình sự trong việc phòng ngừa người bị oan

Con người là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi hoạt động nói chung và hoạt động TTHS nói riêng. Theo đó, cần giáo dục cho cán bộ tư pháp ý thức pháp luật, trong đó việc giáo dục lương tâm, đạo đức và ý thức về uy tín nghề nghiệp. Ngoài ra, cũng cần tiến hành một số giải pháp đồng bộ khác như:

- Tập trung nâng cao năng lực, trình độ, tinh thần, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là các chủ thể tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, bảo đảm xem xét khách quan, toàn diện các tình tiết trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án;

- Đề cao và có quy định về chế độ trách nhiệm cá nhân đối với từng chức danh cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị và những người tiến hành tố tụng;

- Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với các tập thể và cá nhân người THTT có hành vi vi phạm pháp luật. Đối với những người THTT có lỗi trong việc làm oan người vô tội phải kiểm điểm, làm rò trách nhiệm và có biện pháp xử lý phù hợp;

- Tiếp tục củng cố và tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp theo lộ trình từng bước bảo đảm đủ về số lượng, về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đối với thẩm phán Tòa án các cấp. Thực hiện tốt công tác đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán.

3.3.2. Bảo đảm thực hiện tốt và nghiêm chỉnh nguyên tắc độc lập của Tòa án và các cơ quan, người tiến hành tố tụng khác

Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc hiến


định chủ đạo của hoạt động tư pháp, trước nhất và tập trung là hoạt động xét xử của Tòa án. Do vậy, trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, để bảo đảm các nguyên tắc hiến định trong hoạt động xét xử và nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án, bảo vệ quyền con người, cần có những giải pháp bảo đảm việc thực hiện tốt nguyên tắc độc lập của Tòa án và các cơ quan, người THTT như sau:

Cải cách hệ thống Tòa án về cơ cấu, tổ chức; bảo đảm tính độc lập, khách quan của Tòa án. Cần tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử để bảo đảm sự độc lập của Tòa án đối với các cơ quan chính quyền địa phương, làm giảm mối quan hệ hành chính giữa Tòa án nhân dân địa phương và chính quyền địa phương. Mặt khác, cần thay đổi quan niệm truyền thống về vị trí Tòa án, thẩm phán, hội thẩm. Tòa án là cơ quan tư pháp, không phải cơ quan hành chính. Quan hệ chấp hành - điều hành chỉ được áp dụng ở Tòa án trên phương diện tổ chức, quản lý; trong hoạt động xét xử, thẩm phán và hội thẩm có vị trí độc lập với tất cả các cá nhân, tổ chức khác và không chịu bất cứ một sự điều hành hay chỉ đạo nào. Theo đó, pháp luật phải quy định rò ràng hơn về vị trí pháp lý đặc biệt của thẩm phán, hội thẩm nhân dân và những người THTT khác, đồng thời phải có chế tài xử lý nghiêm minh những hiện tượng lợi dụng quan hệ điều hành để can thiệp bất hợp pháp vào công tác xét xử.

- Phát hiện, xử lý nghiêm minh và kịp thời mọi hành vi lôi kéo, mua chuộc, gây ảnh hưởng của đương sự, người bị xét xử đối với những người THTT. Ngoài ra, cần có chế độ bảo vệ chặt chẽ, bất khả xâm phạm đối với những người THTT và trụ sở các cơ quan, làm việc của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra.

- Cải cách chế độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ và bảo đảm đời sống cho đội ngũ thẩm phán, nâng cao đãi ngộ và bồi dưỡng đạo đức cho đội ngũ thẩm phán để bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc xét xử.


- Bảo đảm sự độc lập của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đối với các cơ quan khác.

3.3.3. Đổi mới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Cần tiến hành đổi mới công tác kiểm sát các hoạt động tố tụng hình sự, tổ chức rút kinh nghiệm đối với các trường hợp oan, sai và tiến hành giải quyết dứt điểm việc bồi thường cho những người bị oan của Viện kiểm sát. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã chỉ rò: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án. Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. Ngoài ra, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh phải “thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”. Do vậy, cần đổi mới không chỉ tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát mà còn đổi mới cả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát để nâng cao vị trí, vai trò của cơ quan kiểm sát trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, xây dựng Viện kiểm sát trở thành một cơ quan công tố mạnh, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới của đất nước.

Tóm lại, để làm tốt một hoạt động thì các khâu tạo thành nó cũng phải được hoàn thiện. Chỉ khi nào khắc phục được những hạn chế, sửa đổi những bất cập, xây dựng một cơ chế, chính sách pháp luật phù hợp thì hoạt động BTTH mới phát huy được hết vai trò thực sự của nó, thực hiện đúng tinh thần cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian sắp tới.

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí