Quan Điểm Của Đảng Và Nhà Nước Về Bảo Đảm Quyền Con Người Thông Qua Cơ Chế Bồi Thường Nhà Nước Cho Người Bị Oan Trong Hoạt Động Tố Tụng Hình


thẩm quyền giải quyết BTTH đối với trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn đã rất linh động trong việc xác định các thiệt hại về vật chất, tinh thần cho ông Chấn và gia đình khi không có điều kiện cung cấp đầy đủ các chứng từ, hóa đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngày 16/10/2015, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã hoàn tất thủ tục bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Thanh Chấn số tiền 7,2 tỷ đồng.

Nguyên nhân của những tồn tại, bất cập nêu trên một phần xuất phát từ việc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, từ thực tế triển khai thi hành pháp luật. Bên cạnh trách nhiệm của các cơ quan đã gây nên việc làm oan, còn có nguyên nhân do một số quy định của Luật TNBTCNN chưa thật hợp lý dẫn đến việc chậm bồi thường cho người bị oan như:

- Quy định mô hình cơ quan bồi thường còn phân tán, dẫn đến người bị oan gặp khó khăn trong việc xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường và việc giao cho cơ quan có thẩm quyền tố tụng đã làm oan có trách nhiệm giải quyết bồi thường, tạo ra tâm lý né tránh, đùn đẩy, kéo dài việc giải quyết bồi thường.

- Quy định buộc người bị oan phải có đơn yêu cầu mới giải quyết bồi thường; các tài liệu, giấy tờ làm căn cứ chứng minh thiệt hại còn phức tạp, chưa hợp lý gây khó khăn cho người bị oan.

- Quy định về thủ tục, thời hạn giải quyết bồi thường, việc lập dự toán, quản lý và cấp phát kinh phí bồi thường theo hai cấp (Trung ương và địa phương), chi trả tiền bồi thường còn phức tạp, nảy sinh nhiều bất cập, làm việc bồi thường kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị oan.

- Chưa quy định cụ thể trách nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả của người có thẩm quyền tố tụng gây nên oan, sai để nâng cao trách nhiệm thi hành công vụ, hạn chế việc phát sinh bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự.


Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC CHO NGƯỜI BỊ OAN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự - 10

3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

3.1.1. Quan điểm của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị trong đó có hoạt động của Nhà nước ta. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đó.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết đề cập đến vấn đề cải cách tư pháp như Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương lần thứ 3 và Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (khóa VIII), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo chính trị của hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tiếp theo là Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI (năm 2011). Nếu như TTHS được coi là mục tiêu trước nhất trong việc triển khai các chiến lược về cải cách tư pháp thì hoạt động bồi thường cho người bị oan trong hoạt động TTHS trong giai đoạn hiện nay cũng phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng về cải cách bộ máy, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Do đó, cần


quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:

Thứ nhất, cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ hai, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.

Thứ ba, cải cách tư pháp và vấn đề bồi thường oan, sai nói riêng phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.

Thứ tư, cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.

3.1.2. Quan điểm của Nhà nước

Quan điểm của Nhà nước về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện qua quy định của pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nếu pháp luật đòi hỏi công dân phải có trách nhiệm với Nhà nước và xã hội, thì cũng đồng thời đòi hỏi Nhà nước phải có trách nhiệm trước công dân. Trách nhiệm đó trước hết là các bảo đảm pháp lý để thực hiện các


quyền tự do, dân chủ, nâng cao dân trí, ngăn ngừa các hành vi lộng quyền của bộ máy hành chính. Trong quá trình Nhà nước quản lý xã hội, quá trình thực thi công vụ của cán bộ, công chức hay của những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự mà gây thiệt hại cho công dân trái pháp luật thì cũng phải có trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại đó.

3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự

Lẽ dĩ nhiên, “pháp luật dù có hoàn thiện đến mấy cũng không thể phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống” [56; tr.209] và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự không nằm ngoài quy luật ấy. Do vậy, việc kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành hai bộ luật trên có ý nghĩa rất quan trọng để bảo vệ pháp chế, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo vệ hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt xác định rò ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Bên cạnh đó cũng cần quy định chặt chẽ các thủ tục, trình tự tố tụng với những quy định rò ràng, tăng khả năng giám sát của các cơ quan THTT với nhau, của các cơ quan, tổ chức và toàn xã hội, qua đó tránh việc áp dụng không đúng, không chính xác pháp luật dẫn đến bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Có thể nói BLHS là cơ sở pháp lý quan trọng trong hoạt động TTHS. Trên thực tế, pháp luật hình sự còn nhiều quy định chưa rò ràng, chưa chặt chẽ và đầy đủ, đặc biệt chưa có ranh giới xác định giữa tội phạm và không phải tội phạm hoặc giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác... Do đó, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự theo hướng cụ thể, các dấu hiệu pháp lý rò ràng.

- Cần sửa đổi một số quy định của BLHS về định lượng và định tính,


tạo điều kiện khắc phục việc khởi tố, xử lý hình sự tràn lan dẫn đến làm oan hoặc hành chính hóa các quan hệ hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm như: nâng mức định lượng trong các tội chiếm đoạt như trộm cắp, cướp giật và các tội phạm khác như đánh bạc, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới... các tình tiết định tính như “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”, “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm”, “động cơ cá nhân khác” trong các tội phạm kinh tế, chức vụ, tham nhũng; tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” trong tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác”...

- Sửa đổi, bổ sung, quy định rò dấu hiệu pháp lý đặc trưng của một số tội trong BLHS, khắc phục tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế làm oan người vô tội, tạo điều kiện xác định đúng tội danh trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử như: tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội “Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”; phân biệt tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; giữa tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”....

3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự

- Sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện cho việc thu thập, đánh giá phân tích chứng cứ và sử dụng chứng cứ như: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc và trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; sửa đổi các quy định về thu thập, đánh giá và loại bỏ chứng cứ, bảo quản, xử lý vật chứng, khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm tôn trọng quyền của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, nhất là quyền bào chữa, quyền thu thập chứng cứ,


yêu cầu giám định của người bị buộc tội...; mở rộng chủ thể thu thập chứng cứ. Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm khắc phục việc mớm cung, dụ cung, bức cung, nhục hình trong hoạt động điều tra.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định tạo điều kiện cho việc khởi tố, điều tra tội phạm để chống bỏ lọt tội phạm; khắc phục việc bắt tạm giữ hình sự, tạm giam sau đó chuyển xử lý hành chính như: sửa đổi tăng thời hạn giải quyết đối với tin tố giác, tin báo về tội phạm phức tạp; quy định chặt chẽ các căn cứ khởi tố bị can, căn cứ bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam; căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các CQTHTT.

- Tiếp tục thể chế hóa nội dung Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” trong đó nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng nhấn mạnh yêu cầu này. Do đó, BLTTHS Việt Nam cần quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS, đồng thời cần có các quy định cụ thể triển khai nguyên tắc này trong Bộ luật. Theo quan điểm của tác giả, cần triển khai nguyên tắc tranh tụng ở các nội dung sau: Tòa án là cơ quan bảo đảm việc tranh tụng của các bên trong TTHS. Việc xét xử các vụ án hình sự phải được tiến hành trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình đẳng; Bản án hoặc quyết định của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tại phiên tòa; Tại phiên tòa, hội đồng xét xử phải bảo đảm sự độc lập và thực hiện đầy đủ các chức năng công tố, chức năng bào chữa và chức năng xét xử cho các chủ thể tương ứng thực hiện.

Nghiên cứu mở rộng phạm vi người bào chữa theo hướng không chỉ quy định bao gồm luật sư, người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân và cả những người khác nếu được bị can, bị cáo nhờ bào chữa và được các CQTHTT chấp nhận.


3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Luật TNBTCNN được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2009, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2010. Đến nay, qua hơn 06 năm thi hành trên thực tiễn, Luật TNBTCNN đã từng bước đi vào cuộc sống, việc thi hành Luật đạt được kết quả trên nhiều mặt, góp phần đáng kể vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, củng cố lòng tin của người dân vào hoạt động của bộ máy nhà nước. Song bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành Luật cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Một trong những nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc xuất phát từ chính các quy định của Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành. Để tăng cường hiệu quả hoạt động giải quyết bồi thường cho người bị oan trong hoạt động TTHS thì yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN là cần thiết. Theo đó, cần tập trung vào các nội dung:

Về phạm vi và đối tượng được bồi thường

Việc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong TTHS là rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Trách nhiệm Nhà nước phải bồi thường cho những đối tượng nào và bồi thường như thế nào cần phải được quy định rò trong Luật TNBTCNN, tạo cơ sở cho các cơ quan có trách nhiệm thực hiện đúng, đủ những gì họ phải bồi thường, đồng thời để nhân dân có điều kiện giám sát hoạt động bồi thường.

- Luật TNBTCNN mới chỉ quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường đối với trường hợp bị oan mà bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, về trường hợp người bị bắt trái pháp luật, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp: Hiến pháp năm 2013 quy định “người bị bắt , tạm giữ , tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự” (Điều 31, Khoản 5); đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy


định “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan , trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hà nh tố tụng gây ra”(Điều 31). Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Bộ BLTTHS 2015 thì trường hợp người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trái pháp luật được bồi thường. Vì vậy, cần bổ sung thêm vào phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và BLTTHS 2015.

- Ngoài ra, hiện nay, Bộ luật Hình sự 2015 đã ghi nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của một số tội phạm về kinh tế, môi trường và Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã có quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân (Chương XXIX). Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng mới chỉ quy định nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại là cá nhân trong tố tụng hình sự mà chưa quy định đối với pháp nhân bị thiệt hại do bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan, sai. Hiện nay, theo quy định tại Điều 26 Luật TNBTCNN về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự cũng chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân người bị thiệt mà chưa quy định đối với pháp nhân. Hơn nữa, các thiệt hại được bồi thường cho pháp nhân trong các trường hợp này cũng chưa được nghiên cứu, bổ sung trong các thiệt hại được bồi thường của Luật TNBTCNN. Vì vậy, Luật TNBTCNN cần bổ sung quy định bồi thường thiệt hại đối với pháp nhân thương mại vào phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS.

- Sửa đổi hoặc bãi bỏ điểm a khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 05 ngày 02/11/2012 bởi lẽ, qua thực tiễn cho thấy số đơn đề nghị bồi thường chưa phản ánh đúng thực tế các trường hợp phải bồi thường. Nguyên nhân do còn các trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án có dấu hiệu làm oan

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022