Đặc Điểm Áp Dụng Pháp Luật Trong Xét Xử Sơ Thẩm Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Của Tòa Án Nhân Dân

hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Ngoài ra đối với những vụ án phức tạp Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Đối với vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết, Tòa án quyết định chuyển vụ án đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

Xét xử sơ thẩm tại phiên tòa là trọng tâm của cả giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tại đây HĐXX nhân danh Nhà nước tổ chức cho những người tiến hành tố tụng (trong đó có HĐXX) và người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui định của pháp luật, nhằm thẩm tra đánh giá toàn bộ các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; xem xét các lý lẽ cơ sở buộc tội và gỡ tội của các bên đưa ra để từ đó HĐXX đưa ra những phán quyết là văn bản áp dụng pháp luật. Trong xét xử sơ thẩm tại phiên tòa, HĐXX quyết định về việc thay đổi thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo… Đặc biệt, thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, Tòa án ra bản án là văn bản áp dụng pháp luật, quyết định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác.

Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội nói riêng chủ yếu là nghiên cứu việc ADPL thông qua hoạt động của tòa án, HĐXX (thẩm phán, hội thẩm) bằng các quyết định, bản án kể từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước. Trong đó lần đầu tiên Tòa án nhân danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và các quy định khác của pháp luật để đưa vụ án ra xét xử và ban hành một bản án, một

quyết định, quyết định người đó có tội hay không có tội, quyết định trách nhiệm hình sự nếu họ có tội và trách nhiệm dân sự nếu có.

1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân

Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án là nghiên cứu việc ADPL của Tòa án với đối tượng có tính đặc thù- người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội - trong một giai đoạn tố tụng độc lập là xét xử sơ thẩm. Cũng như hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với mọi đối tượng phạm tội nói chung, có thể phân loại ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội thành những dạng sau đây dựa trên một số tiêu chí nhất định:

Dựa vào các loại QPPL áp dụng, chia thành: ADPL nội dung(QPPL hình sự); ADPL hình thức (QPPL tố tụng hình sự).

Dựa vào trình tự xét xử sơ thẩm với ý nghĩa là một giai đoạn tố tụng độc lập bao gồm nhiều bước (phân đoạn), chia thành: ADPL trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm của Tòa án; ADPL của HĐXX tại phiên tòa; ADPL của Tòa án sau phiên tòa sơ thẩm - với ý nghĩa là để tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.

Trên thực tế các dạng ADPL trong quá trình xét xử sơ thẩm đối với vụ án hình sự thường đan xen giữa ADPL nội dung và ADPL hình thức; và ở bất cứ công đoạn nào cũng là việc áp dụng cùng lúc, trong một thể thống nhất luật hình thức và luật nội dung. Chính vì vậy việc phân chia các dạng ADPL như đã nêu trên đây là tương đối và chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Trên cơ sở những đặc điểm của Áp dụng pháp luật nói chung và xuất phát từ khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội, kết hợp với thực tiễn của hoạt động xét xử có thể thấy áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân có một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Toà án nhân dân là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước của Toà án có thẩm quyền lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử với HĐXX đảm bảo sự hiểu biết cần thiết để xử lý đúng đắn NCTN phạm tội.

Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá - 4

Toà án nhân dân là chủ thể ADPL. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, hệ thống TAND từ Trung ương đến địa phương "Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư pháp" [24, Điều 102]. Toà án thực hiện hai cấp xét xử là: Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Việc xét xử đối với mọi tội phạm nói chung và NCTN phạm tội nói riêng đều được thực hiện bởi các Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. BLTTHS năm 2003 quy định TAND cấp huyện (gọi tắt là Toà án cấp huyện); TAND cấp tỉnh (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) được xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo thẩm quyền của mỗi cấp.

Xác định Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cũng chính là xác định chủ thể ADPL trong xét xử vụ án hình sự cụ thể nào đó. Nhưng chủ thể trực tiếp ADPL trong hoạt động xét xử là HĐXX với vai trò chính là Thẩm phán chủ toạ phiên toà.

HĐXX sơ thẩm thông thường có một Thẩm phán (đồng thời là Thẩm phán chủ toạ phiên toà) và hai Hội thẩm nhân dân. Nhưng theo quy định của pháp luật: “có những vụ án khi xét xử sơ thẩm phải có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân” [22, Điều 185]. Như vậy vừa có Thẩm phán tham gia giải quyết, xét xử, vừa có Thẩm phán chủ toạ phiên toà xét xử trong những trường hợp cụ thể này.

Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, NCTN phạm tội chủ yếu chịu sự tác động của hoạt động ADPL của Toà án, có những đặc điểm mang tính đặc trưng. Đây là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm lý, trình độ nhận thức còn hạn chế, thiếu bản lĩnh, khả năng kiềm chế chưa cao, dễ

bị kích động lôi kéo. Chính vì vậy khi xét xử NCTN phạm tội, HĐXX đòi hỏi phải do những Thẩm phán tiến hành tố tụng "có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của người chưa thành niên" [22, Điều 302, Khoản 1]. Đặc biệt là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh [22 Điều 307].

Như vậy, Toà án thông qua HĐXX với vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện quyền lực Nhà nước giao cho HĐXX đồng thời phải đảm bảo những yêu cầu về hiểu biết cần thiết của những người này trong hoạt động ADPL đối với NCTN phạm tội. Có như vậy mới đảm bảo hoạt động ADPL của Toà án đối với NCTN phạm tội "chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội" [20, Điều 36, Khoản 1].

Thứ hai, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của TAND ngoài việc đảm bảo quy định chung còn phải tuân theo những quy định riêng chặt chẽ về trình tự thủ tục tố tụng đối với NCTN do BLTTHS quy định.

ADPL trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Toà án được quy định trong một đạo luật về luật hình thức, có tính pháp điển hoá cao là BLTTHS. Cũng như ADPL của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong TTHS, việc ADPL trong xét xử vụ án hình sự của Toà án phải bảo đảm trình tự, thủ tục chặt chẽ và có căn cứ pháp luật. Mọi hành vi của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng trong quá trình xét xử từ khi thụ lý hồ sơ đến khi bản án có hiệu lực pháp luật và tổ chức thi hành các quyết định của bản án đều được BLTTHS điều chỉnh.

Nếu xét việc ADPL trong xét xử sơ thẩm hình sự thì việc những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm) tuân thủ các quy định của BLTTHS chính là việc ADPL (nhưng ở đây là áp dụng QPPL hình thức). Tuy nhiên ADPL về thủ tục trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội ngoài việc tuân thủ

những quy định chung của BLTTHS về xét xử sơ thẩm còn phải tuân theo những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội. Pháp luật TTHS coi đây là thủ tục đặc biệt và quy định thành một chương riêng trong BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 và đòi hỏi mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo. Theo đó việc ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội về trình tự, thủ tục phải đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ các quy định của chương này đồng thời theo quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN là điều kiện đủ để Toà án ADPL về trình tự thủ tục trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, khi Toà án ADPL về trình tự thủ tục (hay ADPL về luật hình thức) trong nhiều trường hợp cũng không thể không ADPL về luật nội dung bởi lẽ trong một số QPPL hình thức đã chứa đựng luật nội dung hoặc bao hàm các khái niệm đòi hỏi cả việc áp dụng QPPL nội dung mới có thể ra được quyết định ADPL đúng đắn.

Việc Toà án áp dụng các quy định của BLTTHS trong hoạt động xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội là điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng các QPPL nội dung. Việc Toà án tuân thủ những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội trong BLTTHS đồng thời là đảm bảo các quyền của NCTN, nhằm thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong ADPL xử lý NCTN phạm tội.

ADPL về trình tự thủ tục đối với NCTN hay áp dụng QPPL hình thức được coi là "thủ tục đặc biệt". Tính chất "đặc biệt" được thể hiện qua các quy định rất chặt chẽ có ý nghĩa nhấn mạnh và đảm bảo quyền của NCTN phạm tội. Chẳng hạn, Điều 305 BLTTHS năm 2003 quy định việc lựa chọn người bào chữa của NCTN và đại diện hợp pháp của họ trong các giai đoạn tố tụng. Nếu họ không lựa chọn được thì các cơ quan tố tụng tuỳ theo giai đoạn tố tụng "phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình" [22].

Việc ADPL theo thủ tục "đặc biệt" đối với NCTN phạm tội là một yêu cầu có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo đi đến quyết định ADPL cuối cùng trong xét xử sơ thẩm là bản án, quyết định của Toà án được đúng đắn. Nếu Toà án phát hiện trong các giai đoạn tố tụng trước đó, việc điều tra thu thập chứng cứ có thiếu sót hoặc ADPL không đúng, vi phạm quyền của NCTN phạm tội được BLTTHS quy định trong phần thủ tục thì Toà án áp dụng các quy định của BLTTHS trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo hướng khắc phục những sai lầm trong việc ADPL. Chẳng hạn, Toà án trả hồ sơ khi thấy quá trình điều tra việc lấy lời khai, hỏi cung những NCTN phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, cơ quan điều tra thực hiện không mời đại diện của gia đình họ tham gia; hoặc Toà án ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị can là NCTN dưới 16 tuổi phạm tội nghiêm trọng đã bị giam trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Các quy định chặt chẽ về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong hoạt động tố tụng nói chung, hoạt động xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội nói riêng của BLTTHS năm 2003 là rất quan trọng, thể hiện sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo ADPL đúng đắn, chính xác của Toà án trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội, làm cho các quyết định ADPL của Toà án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thứ ba, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Toà án là quá trình cá biệt hoá các QPPL hình sự đảm bảo các nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội được BLHS quy định để xác định có hay không có tội phạm, quyết định một TNHS giảm nhẹ trong trường hợp họ có tội và trách nhiệm dân sự nếu trường hợp pháp luật có quy định.

Thông thường để đi đến quyết định cuối cùng bằng bản án, Toà án phải áp dụng QPPL hình sự để xem xét bị cáo có tội như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố hay không để quyết định TNHS. Mặt khác, do tội phạm thường gây

thiệt hại cho một quan hệ xã hội nào đó, trong đó có những thiệt hại vật chất có thể tính toán được. Vì vậy, bước tiếp theo trong áp dụng QPPL nội dung là xem xét trách nhiệm dân sự của người đã thực hiện tội phạm gây ra, thiệt hại mà luật quy định phải chịu trách nhiệm dân sự.

Khác với người đã thành niên phạm tội, NCTN phạm tội là chủ thể chịu sự tác động của việc ADPL của Toà án là một loại đối tượng đặc biệt. Đây là những người đang ở độ tuổi phát triển, mặc dù họ đã nhận thức được những đòi hỏi tất yếu của xã hội, nhưng trình độ nhận thức còn hạn chế, còn những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội, từ đó hình thành nên tính tiêu cực này không bền vững cao như ở người đã thành niên. Điều đó chứng tỏ khả năng có thể cải tạo giáo dục NCTN phạm tội đạt hiệu quả cao nếu ADPL phù hợp. Do vậy khi xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội Toà án áp dụng QPPL nội dung phải đảm bảo các nguyên tắc trong xử lý được quy định tại Điều 69 BLHS năm 1999.

Áp dụng QPPL hình sự được xác định là nội dung chính của quá trình ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội của Toà án. Quá trình này bao gồm nhiều bước, nhưng toàn bộ quá trình ADPL phải đảm bảo các nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội như đã nêu ở trên. Khi ADPL, Toà án sẽ đối chiếu các yếu tố của một cấu thành tội phạm với hành vi thực tế của bị cáo đã gây ra để xác định bị cáo có phạm tội hay không. Việc làm này của Toà án là bước lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với NCTN phạm tội.

Lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với NCTN phạm tội cần đáp ứng những yêu cầu sau:

+ Xác định chính xác, đầy đủ và khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội thực tế và hậu quả do hành vi đó gây ra cho quan hệ xã hội được BLHS quy định và bảo vệ - thông qua hoạt động chứng minh và việc tổ chức thực hiện các biện pháp tố tụng quy định trong BLTTHS.

+ Nhận thức đúng đắn về cấu thành tội phạm tương ứng và các quy định có tính nguyên tắc đối với NCTN phạm tội được quy định trong BLHS. Để thực hiện yêu cầu này, chủ thể lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng là HĐXX cần có kiến thức pháp lý vững vàng, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và còn phải có sự hiểu biết những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Xác định được sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể được thực hiện với những mô tả trong cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại BLHS.

Quá trình lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng được Toà án tiến hành kể từ khi thụ lý hồ sơ thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và hoạt động xét xử của HĐXX tại phiên toà. Toà án hay HĐXX căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra và việc điều tra của HĐXX tại phiên toà công khai để đi đến xác định bị can, bị cáo có phạm tội hay không, phạm vào tội gì, vi phạm điều khoản nào của BLHS.

Sau khi đã lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo. Toà án thông qua vai trò của Thẩm phán và HĐXX phải quyết định TNHS được quy định ở phần chế tài của QPPL hình sự. Phần chế tài này nằm trong điều khoản đã lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng, nhưng cũng có thể nằm ở khoản hoặc điều khoản khác của BLHS.

Quyết định TNHS là bước tiếp theo của quá trình ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội. Đây là quá trình phức tạp bao gồm các bước kế tiếp nhau, cụ thể là:

- Có áp dụng TNHS đối với bị can, bị cáo là NCTN phạm tội không. Bởi vì trong xử lý NCTN phạm tội, BLHS năm 1999 còn có quy định miễn TNHS cho NCTN phạm tội.

- Xác định có áp dụng hình phạt với bị cáo là NCTN phạm tội không? loại hình phạt cần áp dụng?

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí