Khái Niệm Áp Dụng Pháp Luật Trong Xét Xử Sơ Thẩm Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Của Tòa Án Nhân Dân

tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này cũng thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta.

Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, như vậy, căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu trên, thì có thể hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.

Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về người chưa thành niên phạm tội như sau:

Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.

Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên rất quan trọng vì đây là căn cứ ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Việc xác định tuổi của bị cáo còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định được việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên.

1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân

Như đã nêu trên, người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi do bị tác động mạnh của điều kiện bên ngoài. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên bị coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một chương riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên", nhà làm luật Việt Nam không hề ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên" là gì? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những đặc trưng riêng so với thủ tục tố tụng áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, về đối tượng phải chứng minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào tố tụng

cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng này.

Để đưa ra khái niệm ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội, trước hết cần làm rò khái niệm xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội là gì?

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

“Xét xử” là từ Hán Việt được hiểu theo nghĩa là xem xét và phán xử. Theo từ điển Luật học năm 2006, xét xử là “hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [3]. Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Hiến pháp năm 1946 tuy qui định tổ chức Tòa án còn chưa mang tính độc lập hoàn toàn vì các Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64), nhưng theo tinh thần của Hiến pháp, có thể hiểu Tòa án là cơ quan xét xử. Các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đã qui định rò về chức năng xét xử của Tòa án. Hiến pháp 1992 qui định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [19, Điều 127]. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND qui định về thẩm quyền xét xử của Tòa án tại Điều 1, đồng thời qui định cụ thể về chức năng xét xử của Tòa án: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo qui định của pháp luật” [21, Điều 1]. Xét xử những vụ án hình sự là một chức năng quan trọng của Tòa án, thông qua đó Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.

Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là một khâu trong quá trình

Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá - 3

giải quyết vụ án hình sự bao gồm điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là một giai đoạn tố tụng độc lập, những phán quyết của Tòa án ngoài việc dựa trên những chứng cứ tài liệu được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trước đó còn phải dựa vào kết quả điều tra công khai tại phiên tòa. Hiện nay, những yêu cầu về đảm bảo tính khách quan, công bằng, đúng pháp luật trong các phán quyết của Tòa án bảo vệ được các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức ngày càng được đề cao thì việc tổ chức thực hiện các phiên tòa xét xử vụ án hình sự thật dân chủ, khách quan là một đòi hỏi bức xúc. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xét xử nói chung, hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng của Tòa án là:

Phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật qui định.

Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay xác định nguyên tắc hai cấp xét xử: Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm về hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là trọng tâm và có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án. Theo từ điển Luật thì “Xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [3, tr.870]. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất.

Theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Luật Tổ chức TAND, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là TAND cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án quân sự cấp quân khu.

Xét xử sơ thẩm hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng, bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án hình sự cùng bản cáo trạng hay quyết định truy tố do Viện kiểm sát chuyển đến và Tòa án vào sổ thụ lý, cho đến khi ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm. Bản án, quyết định hình sự sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực thi hành. Xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án là một giai đoạn độc lập trong TTHS. Trong giai đoạn này, hoạt động của Tòa án đóng vai trò chính và là trọng tâm. Hoạt động xét xử hình sự nói chung, xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng có những đặc điểm riêng khác với giai đoạn điều tra, truy tố trong quá trình giải quyết vụ án hình sự:

Thứ nhất, hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp và là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân danh nhà nước đưa ra những phán quyết về trách nhiệm hình sự mà người phạm tội gây ra và hình phạt trong hoạt động xét xử hình sự.

Thứ hai, hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là hoạt động mang tính công khai, dân chủ trên cơ sở pháp luật, nó được biểu hiện tập trung ở phiên tòa hình sự và là một nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án được BLTTHS qui định.

Thứ ba, hoạt động xét xử hình sự là hoạt động nhằm xác định sự thật khách quan về tội phạm, người thực hiện tội phạm, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt; biện pháp tư pháp đối với người đó.

Theo qui định của pháp luật hình sự ở một số nước, việc xét xử người chưa thành niên phạm tội được tiến hành bởi các Tòa án chuyên biệt. Pháp

luật hình sự Việt Nam lại không qui định một mô hình tòa án riêng để xét xử về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội mà qui định việc xét xử người chưa thành niên phạm tội trong hệ thống cơ quan tòa án thống nhất, bao gồm cả việc xét xử người đã thành niên phạm tội. Theo Điều 131 Hiến pháp 1992; Điều 17 BLTTHS năm 2003 và Điều 6 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 đều ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; theo qui định tại Điều 185 BLTTHS năm 2003, Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm… Song đối tượng phạm tội là NCTN có những đặc điểm riêng, để đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự có NCTN phạm tội là bị cáo, ngoài những nguyên tắc, qui định về xét xử nói chung, khi xét xử NCTN còn phải tuân theo những qui định riêng. Pháp luật TTHS qui định khi xét xử bị cáo là người chưa thành niên, thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là qui định bắt buộc, mang tính đặc thù nhằm bảo đảm trong HĐXX NCTN phạm tội phải có người có khả năng hiểu biết tâm lý lứa tuổi NCTN và có những kinh nghiệm nhất định về giáo dục đối với họ.

Tính công khai, dân chủ trong hoạt động xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội cũng là một nguyên tắc được áp dụng đối với việc xét xử những vụ án mà bị cáo là NCTN. Tòa án thực hiện xét xử công khai, nhưng cũng có thể xét xử kín trong một số trường hợp cần thiết, như giữ bí mật về hành vi và những khúc mắc về đời tư của người chưa thành niên và gia đình họ, nhằm tránh gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển, hoàn thiện bản thân người chưa thành niên trong tương lai.

Tính công khai dân chủ trong phiên tòa xét xử người chưa thành niên phạm tội còn được thể hiện ở chỗ Tòa án còn phải đảm bảo quyền tự bào chữa hoặc mời người khác bào chữa cho người chưa thành niên:

Trong trường hợp bị can, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình [22, Điều 305].

Mặt khác, pháp luật Tố tụng hình sự qui định phiên tòa xét xử NCTN phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo (trừ trường hợp gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng), đại diện của nhà trường, tổ chức.

Hoạt động xác định sự thật khách quan về tội phạm và người thực hiện tội phạm trong xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng như việc xác định tổng hợp các yếu tố cấu thành tội phạm là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm thì phải chú trọng đến: tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN; điều kiện sinh hoạt và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

Các qui định trên thể hiện quan điểm coi trọng việc xử lý NCTN phạm tội trong hoạt động xét xử của tòa án, nó đòi hỏi phải xem xét đầy đủ các khía cạnh liên quan đến NCTN để từ đó áp dụng biện pháp xử lý đúng đắn, có hiệu quả trong giáo dục cải tạo NCTN phạm tội, đồng thời có ý nghĩa trong phòng ngừa tội phạm.

ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật, ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Đây là trường hợp chủ thể bị ADPL là những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm pháp luật mà hành vi đó bị coi là tội phạm được qui định trong BLHS. Nhà nước thông qua Tòa án bằng hoạt động xét xử quyết định về trách nhiệm hình sự và những chế tài hình sự đối với NCTN phạm tội

trong phiên tòa sơ thẩm. Có thể nói, ADPL là nội dung của hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung, ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội nói riêng, những hành vi tố tụng trong xét xử của HĐXX là hình thức biểu hiện của nội dung ADPL. ADPL trong xét xử NCTN phạm tội ngoài việc đảm bảo những nguyên tắc chung về ADPL trong xét xử hình sự của Tòa án còn phải tuân thủ những qui định có tính nguyên tắc đặc thù nhằm đáp ứng yêu cầu có tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước là: Việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy việc nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của TAND có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển lý luận về ADPL nói chung trong các lĩnh vực cụ thể. Mặt khác, việc nghiên cứu ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội còn có ý nghĩa thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng ADPL của Tòa án, cụ thể là HĐXX đảm bảo tính thống nhất của ADPL hình sự, dân sự và tố tụng trong các phán quyết của Tòa án đối với NCTN phạm tội.

Như đã phân tích, xét xử sơ thẩm hình sự là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự, giai đoạn này được tính từ khi Tòa án nhận được hồ sơ kèm theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát chuyển đến và Tòa án vào sổ thụ lí. Cũng bắt đầu thời điểm này Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành ADPL.

Pháp luật TTHS Việt Nam phân chia giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự thành các bước cụ thể theo tiến trình hoạt động tố tụng của Tòa án: chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa. Việc ADPL trong các bước này có sự khác biệt nhau.

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án hình sự ra xét xử theo qui định của pháp luật. BLTTHS năm 2003 qui định trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án có thể đưa ra các quyết định ADPL sau đây: a) Đưa vụ án ra xét xử; b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; d) Áp dụng thay đổi hoặc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022