được tham gia ngay từ khâu lập kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, lựa chọn công nghệ và giám sát thực hiện xây dựng công trình. Phương thức quản lý và chủ sở hữu công trình sau xây dựng phải đựơc xác định ngay từ khi lập dự án, đặc biệt cơ chế tài chính được thiết lập phù hợp với quy mô công trình và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương đảm bảo phát triển bền vững. Khuyến khích việc phân cấp quản lý đầu tư bằng ngân sách Nhà nước cho tổ chức trực tiếp khai thác công trình. Giá nước phải được tính toán đúng, tính đủ các chi phí sản xuất, đảm bảo cho các tổ chức và cá nhân làm dịch vụ khai thác, các nhà đầu tư tự chủ về tài chính trong hoạt động kinh doanh. Trường hợp giá nước tiêu thụ thấp hơn giá thành, phải xác định nguồn kinh phí hỗ trợ. Người sử dụng nước có trách nhịêm và nghĩa vụ trả tiền nứơc theo số lựơng sử dụng thực tế và giá nước quy định.
Sáu là, đa dạng hoá nguồn kinh phí, trong đó xã hội hoá nguồn lực tài chính làm trong tâm bằng cách vận động và tổ chức, tạo cơ sở pháp lý để khuyến khích sự tham gia của nhân dân, các thành phần kinh tế và toàn xã hội đầu tư vào nứơc sạch &VSMTNT. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư. Đồng thời, mở rộng thị trường nước sạch và VSMTNT thông qua vốn vay ưu đãi của nhà nước và quốc tế cho các vùng kinh tế phát triển và các vùng đồng bằng, giảm dần vốn ngân sách cho các vùng này để tập trung ưu tiên cho các vùng miền núi, vùng khó khăn và các vùng thường xuyên bị thiên tai.
Với các giải pháp xây dựng mới công trình thuỷ lợi là rất tốn kém, trong khi đó rất nhiều công trình đã có lại chưa phát huy hết năng lực. Giải pháp về sửa chữa nâng cấp công trình hiện có, đi đôi với việc đổi mới công tác quản lý, nâng cao hiệu quả công trình, tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật tưới tiết kiệm nước, sử dụng nước tiết kiệm thông qua việc xây dựng mô
hình điểm để nhân rộng sẽ đòi hỏi chi phí không cao nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn. Đây là hướng đi đang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo thực hiện.
3.3. Giải pháp sử dụng nguồn nước cho xã Tân Lập - Chợ Đồn - Bắc Kạn
3.3.1. Giải pháp của UBND xã Tân Lập
3.3.1.1. Giải pháp cho khu khực tiếp cận tốt nguồn nước
Phát triển và bảo vệ tốt các công trình thuỷ lợi, cần tăng cường vai trò của chính quyền cơ sở, bởi các điều kịên về nguồn lực, kỹ thuật về cấp nước công tác vận hành- bảo dưỡng các công trình nước sạch và vệ sinh diễn ra thường xuyên và lâu dài trong phạm vi quản lý của người dân và chính quyền địa phương. Các họat động cấp nước và VSMTNT chỉ có thể thành công và bền vững nếu có sự liên kết chặt chẽ với chính quyền cơ sở và sự phối hợp của các cơ quan chức năng liên quan.
Có thể bạn quan tâm!
- Chi Phí Sản Xuất Lúa Của Nhóm Hộ Điều Tra (Tính Cho Bq 1 Sào)
- Phân Tích Ảnh Hưởng Của Khả Năng Tiếp Cận Nguồn Nước Đến Thu Nhập Của Hộ
- Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 11
- Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 13
- Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 14
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Những năm qua, vấn đề xói mòn, suy thoái đất tại vùng trung tâm xã, nơi có điều liện thuận lợi nhất trong việc tiếp cận nguồn nước, do tác động của điều kiện tự nhiên và nạn phá rừng, cũng như các hoạt động canh tác nông nghiệp không phù hợp trên đất dốc diễn ra với tốc độ nhanh, trong khi vùng đồng bằng thích hợp cho cây hoa màu lương thực ngắn ngày trên thực tế đã được khai thác tới hạn. Do vậy, việc phát triển nông lâm nghiệp trong những năm tiếp theo phụ thuộc phần lớn vào vấn đề quản lý sử dụng hiệu quả và lâu bền quỹ đất đồi núi vốn đang rất đa dạng, giàu tiềm năng, nhưng vấn đề mấu chốt tiếp cận và sử dụng nguồn nước để phát triển nông nghiệp là giải quyết nước tưới cho cây trồng và hạn chế chống xói mòn đất.
Là vùng có thuận lợi về tiếp cận nguồn nước, nhưng còn gặp nhiều khó khăn do phải hứng chịu những thiên tai từ thiên nhiên, cần xây các bể chứa nước nhỏ. Dòng suối chảy qua trung tâm xã cần có các guồng quay dẫn nước
từ suối thấp lên các kênh mương hoặch ống dẫn nước để đến được với diện tích cần tưới nước, đầu tư máy móc phục vụ tưới tiêu. Xây dựng kè chống xói dọc bờ sông, chống hiện tượng xói mòn, làm mất diện tích đất canh tác.
Hiện tại các vùng đồi núi nước ta nói chung và vùng khó khăn nhất về tiếp cận nguồn nước của xã Tân Lập, hầu hết hệ thống công trình thuỷ lợi nhỏ, mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu nước cho phát triển nông nghiệp. Những khu vực đất dốc giàu tiềm năng trồng cây ăn quả thường nằm ngoài phạm vi phục vụ của các hệ thống thuỷ lợi. Phát triển hệ thống tưới cho các khu vực này thường không khả thi, hoặc nếu có thể thì chi phí đầu tư xây dựng cũng như vận hành và quản lý sẽ rất lớn và không mang lại lợi nhuận. Do vậy, giải pháp có chi phí thấp - giải pháp thu trữ nước có nhiều ưu điểm, thích hợp với vùng đất này là một giải pháp tốt.
Thu trữ nước là giải pháp tạo nguồn nước tưới hiệu quả cho những vùng có điều kiện tiếp cận nguồn nước khó khăn nhất, không thể xây dựng được công trình thuỷ lợi, đặc biệt thích hợp với những vùng trồng cây ăn quả và cây công nghiệp trên các vùng đất dốc. Việc ứng dụng giải pháp này vừa giải quyết được nguồn nước vào mùa khô vừa có tác dụng hạn chế xói mòn, rửa trôi đất và các chất dinh dưỡng. Hệ thống thu trữ nước có kết cấu đơn giản, rất dễ áp dụng và nhân rộng. Trong các hạng mục của hệ thống thu trữ nước, bể chứa chiếm tỷ lệ kinh phí lớn nhất. Do đó, chính quyền UBND xã Tân lập cần đưa một số loại vật liệu như gạch xây, xi măng đất, bê tông vỏ mỏng vào thử nghiệm, bởi bể chứa bằng bê tông vỏ mỏng có giá thành thấp nhất. Hình thức bể này đang được kiến nghị đưa vào ứng dụng đại trà cho vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Khu vực không thuận lợi và rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước, chính quyền địa phương cần có những giải pháp chung và đồng bộ, vì đều có những khó khăn giống nhau như, xa nguồn nước, chưa được sử dụng
hệ thông kênh mương thuỷ lợi, cùng nằm ở địa hình cao và dốc, không có các công trình chứa nước như ao, hồ và bể chứa nước, vì vậy cần đầu từ xây dựng các hồ chứa nước tự nhiên phù hợp để tránh lẵng phí.
Cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa của chính quyền địa phương trong việc đầu tư nâng cấp hệ thống thuỷ lợi, định hướng phát triển kinh tế phù hợp với vùng. Sử dụng nguồn nước một cách hợp lý, phân bố cây trồng phù hợp, ví dụ trồng các loại cây có khả năng chịu hạn cao…
Một số giải pháp về giữ nước và sử dụng nước
Một là, phải tính đến những giải pháp giữ nước, giữ tại chỗ, giữ từng chặng, triệt để hạn chế lượng nước mưa chảy ra biển. Ðịa hình phần lớn của huyện Chợ Đồn và xã Tân Lập là đều có độ dốc đổ ra Biển Ðông, nếu không có những giải pháp giữ nước thì sau mỗi trận mưa tạo dòng chảy trên mặt đất chiếm tới 90% lượng nước mưa, làm xói mòn đất mùn và lượng nước mưa quý hiếm đó nhanh chóng theo sông chảy ra biển. Các giải pháp giữ nước tại chỗ và từng chặng bao gồm tích trữ nước mặt, tăng lượng nước ngầm.
Tổng thể các giải pháp là một hệ thống hoàn chỉnh chia nhiều bước, thực hiện trong nhiều năm; nhỏ và dễ làm trước, to và khó làm sau, tùy theo khả năng huy động nhân lực, sự hỗ trợ của dân và Nhà nước. Trước mắt cần tổ chức một chương trình nghiên cứu xây dựng hệ thống giải pháp được bố trí thành hệ thống kế hoạch, chia bước hằng năm, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm sản xuất bền vững và ổn định đời sống nhân dân. Mỗi khi tạo được các công trình trữ nước lớn, nhỏ hay các đập tràn dâng mức nước, cần có kế hoạch sử dụng có hiệu quả nguồn nước mới được tạo nên, lấy hiệu quả kinh tế của bản thân nó để tạo điều kiện thực hiện tiếp kế hoạch của giai đoạn sau.
Hai là, sử dụng nước hợp lý, phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Cần hình thành một chương trình nghiên cứu khoa học để làm cơ sở phân phối nguồn
nước quý hiếm này cho các lĩnh vực sử dụng như: Sinh hoạt, tưới tiêu, phát triển cây trồng phù hợp với vùng.
Ba là, chống ô nhiễm nguồn nước sạch và tái sinh nước đã sử dụng. Hiện tượng tại huyện Chợ Đồn hiện nay là sử dụng nước lãng phí và làm ô nhiễm nguồn nước, do huyện có một số công ty khai thác khoáng sản và khai thác quặng đồng thời nước thải không xử lý càng làm tăng mức độ ô nhiễm nguồn nước sạch. Là tiếng chuông cảnh báo, chúng ta cần khẩn trương tiến hành các giải pháp khả thi để bảo vệ các nguồn nước ngọt quý. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài là tăng cường tuyên truyền, nâng cao dân trí về bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước sạch, thực hiện các biện pháp chống ô nhiễm nguồn nước sạch và tái sinh nước thải trong sinh hoạt cũng như trong các lĩnh vực sản xuất để quay vòng sử dụng.
Ba giải pháp trên bao gồm một hệ thống các giải pháp mang tính tổng hợp, cần được tiến hành đồng bộ mới đạt được yêu cầu hỗ trợ lẫn nhau, chi phí thấp, hiệu quả cao.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tìm nguồn nước ngầm cho vùng núi cao, xây lu chứa và bể chứa nước để chứa nước mưa. Nhưng thực tế cho thấy, trong thời gian ngắn nếu không có mưa thì nước cũng bôc hơi hết. vì vậy giải pháp tìm nguồn nước ngầm là vô cùng quan trọng đối với vùng cao khó khăn về tiếp cận nguồn nước. Việc xây dựng các đường dẫn nước tự chảy từ các mỏ nước sẽ rất lợi, nếu các mỏ nước tồn tại lâu dài.
Đa số diện tích ở vùng này là đất đồi núi dốc, vấn đề xói mòn, suy thoái đất canh tác do tác động của điều kiện tự nhiên va nạn phá rừng cũng như các hoạt động canh tác nông nghiệp không phù hợp trên đất dốc diễn ra với tốc độ nhanh. Vì vậy vấn đề hạn chế xói mòn và giải quyết nước tưới cho cây trồng là vấn đề mấu chốt.
3.3.2. Giải pháp cho khu vực có điều kiện trung bình về nguồn nước
Để tạo điều kịên cho người dân nông thôn tiếp cận đựơc với nước sạch và điều kiện vệ sinh tốt, Nhà nước và chính quyền địa phương cần phải ưu tiên cải thiện điều kiện cấp nước và vệ sinh cho người nghèo, khu vực nghèo và giải quyết đồng bộ các yếu tố xây dựng, quản lý, công nghệ, nâng cao năng lực cộng đồng và thông tin, giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức. Đồng thời thực hịên chủ trương tiếp cận dựa theo nhu cầu và phân cấp quản lý, thực hiện công tác cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn một cách mạnh mẽ hơn, trong đó đặc biệt chú trọng vào việc trao quyền cho cộng đồng và lấy cộng đồng làm trọng tâm.
Tiếp tục đầu tư cho việc xây dựng các kênh mương còn dang dở, kiên cố hoá kênh mương, tránh tình trạng nước không đến được với những diện tích cần tưới tiêu, tránh tình trạng nước bị thấm do mương chưa được xây kiên cố hoá.
Là khu vực có điều kiện thuận lợi về nguồn nước, mặc dù chưa thật sự có điều kiện tốt nhất về tiếp cận nguồn nước, nhưng là một vùng có nguồn nước dồi dào và có điều kiện thuận lợi. Vùng đã được hưởng hệ thống kênh mương thuỷ lợi, nhưng do còn một số chỗ kênh mương còn thấp hơn mặt ruộng và diện tích cần tưới nước, vì vậy cần có một quy hoạch đồng bộ, tránh tình trạng diện tích cần tưới nước gần hệ thống thủy lợi, nhưng không thật sự thuận tiện khi tiếp cận với nguồn nước đó.
3.3.3. Giải pháp cho khu vực không thuận lợi trong việc tiếp cận và sử dụng nguồn nước
Những năm qua, vấn đề xói mòn, suy thoái đất tại vùng trung du miền núi do tác động của điều kiện tự nhiên và nạn phá rừng, cũng như các hoạt động canh tác nông nghiệp không phù hợp trên đất dốc diễn ra với tốc độ nhanh, trong khi vùng đồng bằng thích hợp cho cây hoa màu lương thực ngắn
ngày trên thực tế đã được khai thác tới hạn. Do vậy, chính quyền địa phương cần chú trọng việc đầu tư hệ thống kênh mương thuỷ lợi, các đường ống dẫn nước, phát triển nông lâm nghiệp trong những thập kỷ tiếp theo phụ thuộc phần lớn vào vấn đề quản lý sử dụng hiệu quả và lâu bền quỹ đất đồi núi vốn đang rất đa dạng, giàu tiềm năng, nhưng vấn đề mấu chốt để phát triển nông nghiệp miền núi là giải quyết nước tưới cho cây trồng và hạn chế chống xói mòn đất. Với nguồn kinh phí của một xã nghèo, xây các bể chứa lớn là khó thực hiện, vì vậy, xây các bể chứa nhỏ bằng vật liệu xây dựng (xi măng, đá, cát, sỏi, sắt, thép) sẽ tiết kiệm được chi phi và tăng khả năng giữu nước cho vùng này. Xây dựng các trạm bơm nhỏ để bơm nước lên bể chứa theo các đường ống dẫn trong trường hợp mừa khô, lượng mưa ít. Xây dựng kiên cố hệ thống kênh mương, tránh tình trạng thấm nước.
3.3.4. Giải pháp của các nhóm hộ nông dân xã Tân Lập
Kết hợp với chính quyền địa phương, góp sức cùng chính quyền đầu tư và xây dựng hệ thống kênh mương, xây dựng lắp đặt các đường ống dẫn nước nhỏ từ vùng thuận lợi lên vùng khó khăn, tưới phun đối với vùng triền đồi cao. Bên cạnh đó cần tăng cường bảo vệ, tu sửa hệ thống kênh mương, đuờng ống dẫn nước, kiểm tra và khơi thông hệ thống dẫn nước. Đối với vùng thuận lợi, còn một số vùng, các hộ nông dân ở cao hơn hệ thống kênh mương, dùng biện pháp tát nước bằng gầu lên mương, dùng ống dẫn nước vào diện tích cần tưới tiêu. Đối với các hộ khó khăn về nguồn nước, biện pháp giữ nước là vô cùng quan trọng, xây các bể chứa nước nhỏ hoặc chứa nước bằng các lu chứa nước sẽ với chi phí ít hơn. Mặt khác, tranh thủ sự đầu tư của của Nhà nước cũng như của chính quyền địa phương để tiếp cận tốt hơn nữa nguồn nước, để tăng thu nhập của mình. Ngoài ra cũng cần có chiến lược và định hướng đúng đắn đối với việc canh tác và trồng loại cây thích hợp với vùng đất canh tác, để đạt được năng suất cao.
Bên cạnh đó còn cần có giải pháp mang tính cộng đồng, trồng rừng để giữ nước đầu nguồn, tạo nguồn nước mạch và độ màu mỡ cho đất trồng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, vì vậy việc quan tâm của các cấp các ngành trong nước đã có nhiều sự quan tâm và đầu tư lớn trong việc phát triển nông nghiệp bền vững, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ và nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước, phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa nền kinh tế chúng ta phát triển cùng khu vực.
Trong quá trình thực hiện Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng việc tiếp cận nguồn nước tác động đến thu nhập của người nông dân xã Tân Lập, từ số liệu điều tra thực tế, Luận văn rút ra một số kết luận sau:
1. Trong những năm qua, cùng với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của chính quyền địa phương và sự vươn lên khắc phục những khó khăn của người dân, việc nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước đã và đang dần được cải thiện, với nhiều điều đã đạt đươc trong phát triển nông nghiệp của địa phương. Tuy nhiên, bên bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại cần tháo gỡ, chính vì vậy vẫn cần có những nghiên cứu chi tiết hơn, cụ thể hơn nữa về vấn đề nâng cao khả năng được tiếp cận với nguồn nước, và đề ra những giả pháp mang tính tổng thể hơn.
2. Tân Lập là một xã miền núi vùng sâu, vùng xa của huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Đời sống nhân dân còn nghèo nàn, lạc hậu, giao thông đi lại giữa các vùng còn khó khăn, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Sạt lở bờ sông khu vực trung tâm xã Tân Lập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, đời sống vật chất, tinh thần, đất đai, ruộng vườn của người dân, cũng như các cơ sở hạ tầng quan trọng của xã như đường giao thông liên thôn, đường điện, năng suất, thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp…Do đó việc xây dựng các kề chống xói lở là vô cùng cần thiết.
3. Với điều kiện về nguồn nước khá dồi dào, nhưng do phân bố không đều, cơ sở hạ tầng còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu nước tưới tiêu cho