Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, sĩ tử không những phải thông làu kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ.
Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực hư thiên văn, địa lý, bói toán, y học..., đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi sĩ tử phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!
* Thi Hội và thi Đình
Thi Hội và thi Đình được mệnh danh là kỳ thi Đại Tỷ (thi lớn, thường được gọi là Đại khoa, gồm hai giai đoạn).
Thi Hội là kỳ thi quốc gia dành cho những người đã qua thi Hương, có bằng cử nhân và các Giám sinh đã mãn khóa Quốc Tử Giám. Những người đỗ đạt trong các kỳ đại khoa như thế đều có danh hiệu, tùy thuộc các thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội cũng có 4 kỳ. Kỳ một thi kinh nghĩa, thư nghĩa, kỳ hai thi chiếu, chế, biểu, kỳ ba thi thơ phú và kỳ bốn thi văn sách.
Thi Đình còn gọi là Điện thí, được tổ chức ngay tại sân điện, do đích thân vua ra đề và chấm thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi Đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.
Đây cũng là kỳ thi cuối cùng để xếp loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội trước đó. Sau khi vua chấm bài, học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng.
Những vi phạm, can tội trong chế độ khoa cử và hình thức xử phạt
Những vi phạm như: mang sách vào trường thi, sang lều người khác hỏi chữ, thi hộ… đều bị xem như là tội đồ và tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà có các hình thức phạt như: đóng gông đuổi ra khỏi trường thi, đánh 100 trượng, xoá tên trong sổ không cho đi thi vĩnh viễn, hoặc bị giam cầm… Những người vi phạm tội nặng như phạm
Có thể bạn quan tâm!
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 1
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 2
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 4
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 5
- Điều Kiện Để Phát Triển Loại Hình Du Lịch Học Tập Ở Hải Phòng
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
húy, bất túc…đều phải bị nêu tên lên bảng con- tức là một tấm bảng ngang dài độ 3 thước, ngang khoảng 3 gang làm bằng phên tre, trét vôi trắng dùng để ghi tên những người can tội nặng.Sau đây là những can tội thường được nhắc đến:
Phạm húy: Trước ngày thi có bảng nêm yết ở cửa những chữ húy mà ai cũng phải tránh kể cả các khảo quan. “ Tuyệt bút” là cấm ngặt không được dùng, lúc đọc phải tránh âm, lúc viết phải sửa đổi hay dùng những chữ cận âm hay cận nghĩa thay thế. Ví dụ như tránh dùng các tên vua nhà Nguyễn: Miên, Hồng, Đởm… nếu gặp thì phải dùng từ khác cận nghĩa hay cận âm.
Khiếm trung: Là bên chữ “vua” không được viết thêm những chữ “ hôn”, “sát”… Khiến hiểu lầm nhà vua u mê, hung dữ, hay bị giết…
Cấm tì ố: Quyển thi phải giữ sạch sẽ không được có vết mực hay hoen ố, công dụng của các ống quyển mà các sĩ tử trân trọng đeo trước ngực là để che chở cho các quyển văn khỏi bị mồ hôi hay nước mưa làm hoen ố.
“ Bất túc” và “ Bất cập”: Là viết không đủ quyển, không thành bài, viết chỉ vài dòng. tội này nặng vì chứng tỏ thí sinh không đủ sức đi thi mà khảo quan duyệt hạch không kỹ hoặc cố tình nâng đỡ. trường hợp này cả Khảo quan và thầy học cùng bị phạt.
Ngoại hàm: Tất cả những quyển thi bị nộp trễ sau khi đã khoá hòm đựng quyển thi bị gọi là”Ngoại hàm”. Dù bài không được chấm nhưng cũng được đọc kỹ xem có bị phạm trường quy hay không. “ Ngoại hàm” là tội nặng, cũng bị nêu tên lên bảng con.
1.2.1.2. Các cấp bậc đánh giá sĩ tử
Những người đỗ trong các kỳ thi Hương chia ra làm 2 loại. Loại một (từ thời Lê về trước) có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống (gọi theo học vị là Cử nhân). Cách gọi này có ý nghĩa là các địa phương cống lên, tiến cử lên để triều đình tuyển chọn nhân tài. Những ông cử này sẽ được dự kỳ thi Hội. Loại Hai không được thi Hội gọi là Sinh đồ. Thời nhà Nguyễn quy định thi
Hương đỗ tam trường (ba vòng đầu), đạt học vị Tú tài; đỗ tứ trường đạt học vị Hương cống (về sau gọi là cử nhân); đỗ thủ khoa đạt Giải nguyên.
Kỳ thi Hội chọn ra các Tiến sĩ. Thi Hội đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi Đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị Phó bảng; đỗ thủ khoa đạt Hội nguyên.
Đỗ thi Đình đạt học vị chung là Tiến sĩ; đỗ thủ khoa đạt Đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8 đến 10 điểm được xếp bậc Đệ nhất giáp; 10 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), 9 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn, 8 điểm đạt Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.
Ba chức danh cao nhất của chế độ khoa cử là Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dành cho những người đạt điểm cao nhất của kỳ thi Đình với các ứng viên là Tiến sĩ. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, thăm hoa ở vườn ngự uyển, cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.
Lịch sử khoa bảng Việt Nam kéo dài 744 năm, từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919. Theo số liệu thống kê được, có 2.898 người đỗ đại khoa (từ Tiến sĩ trở lên, trong đó 50 Trạng nguyên, song không có phụ nữ). Số không thống kê được có tới hàng vạn người đỗ các mức thấp hơn (Cử nhân trở xuống). Phần lớn những người đỗ đạt đều tham gia vào bộ máy quản lý đất nước và có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.2.2. Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc, Trần Tất Văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.2.1. Trạng nguyên Lê Ích Mộc
a) Giới thiệu chung
Lê Ích Mộc (chữ Hán: 黎 益 沭 , 2 tháng 2 năm 1458 - 15 tháng 2 năm 1538), người làng Quảng Cư, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn (nay thuộc huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng), đỗ đầu đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên) khoa tháng hai, Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), đời Lê Hiến Tông.Lê Ích Mộc làm quan tới Tả thị lang.
Lê Ích Mộc là vị Trạng nguyên đầu tiên của thành phố Hải Phòng, am hiểu kinh Phật, tinh thông Nho giáo, tỏ tưởng sâu trình các phép thần thông huyền bí của đạo giáo Lão Trung kết hợp với sự am hiểu sâu sắc về y học thiên văn, chiêm tinh, lí số.
Ông nguyên là đạo sĩ, đến khi đỗ, vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà không biết.
Khi ông chết, nhân dân địa phương lập miếu thờ và tạc tượng ông thờ ở cạnh chùạ Diên Phúc.
b) Cuộc đời và sự nghiệp
Lê ích Mộc sinh ngày 02 tháng 02 năm 1458 tại làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, bậc khởi tổ là cụ Lê Văn Hợi từ đất Tây Kinh Thanh Hoá đến đây sinh cơ lập nghiệp. Đến đời thứ 3 kết quả mối tình giữa cụ Lê Văn Quang và bà Nguyễn Thị Lệ sinh thành ra Lê ích Mộc. Theo sinh đồ Lê Tuấn Mậu trong : “ Tiểu sử tiền sư chùa Thanh Lãng” soạn năm 1597 cho biết : Dưới Triều Lê Thánh Tông, ở làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, Trấn Hải Dương, có một người nối nghiệp nho, tư gia hiếu thảo, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lệ, cửa nhà thanh bần, kính sư sùng phật, hay gíup đỡ người nghèo khó. Một đêm kia, vợ chồng nằm chiêm bao thấy quan âm bồ tát cho một đoá hoa sen và một bài thơ:
“Phật cho Lê Thị một bông sen Hiển thách nghìn thu dậy tiếng khen Đích xác sang năm sinh quý tử Danh lừng tam giáo gội ơn trên.”
Hôm sau vợ chồng nói chuyện lấy làm vui mừng. Từ ngày ấy, bà Lệ có mang
và sinh hạ được một người con trai mặt vuông, tai lớn, đặt tên là Lê Ích Mộc.
20
Tục truyền rằng, thuở nhỏ Lê Ích Mộc là cậu bé thông minh, ham học và ngoan ngoãn được bà con làng trên xóm dưới yêu quý. Hàng ngày, sau những buổi phụ giúp cha mẹ, cậu bé Mộc thường hay tới chùa Ráng giúp đỡ các vị tăng ni quét dọn nhà cửa, xới đất trồng cây và chăm chỉ học hành, nghe nhờ văn sách. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học, nhà chùa đã nhận Lê Ích Mộc vào làm đệ tử, kèm cập thêm kinh sử. Ngày ngày ăn chay niệm phật. Lê Ích Mộc vẫn dành thời gian cho đèn sách. Đêm đêm , dưới ánh sáng lập loè của đom đóm hay dưới ánh sáng mờ nhạt của ánh trăng khuya, ông lấy mâm cát làm sách học, Lê Ích Mộc chăm chỉ dùi mài kinh sử. Ông lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết chữ lên đó để học, ghi nhớ rồi xoá đi. Đó là cách học “Nhập tâm” giúp người ta nhớ lâu, hiểu kĩ . Lê Ích Mộc cho rằng: “Việc học là việc khó nhưng không vì thế mà không học. Mỗi người hãy tuỳ theo khả năng của mình mà chọn học”. Bởi thế mà ông đã lừng danh trong vùng là người nhớ lâu, hiểu kỹ. Bài học của ông, sách Đại Việt đỉnh nguyên có ghi: “ Tam công túc học đáo kim can ” tức là sau 3 năm đã thông hiểu đầy đủ giáo lý, giáo pháp của bộ kinh kim cương.
Một hôm, Ích Mộc đang đi ở ngoài đường, gặp một vị sư già, một vị cao tăng trụ trì tại chùa Yên Lãng ( Tức chùa Ráng), nhà sư thấy Lê Ích Mộc có tướng và cơ duyên của một vị cao tăng nên theo Lê Ích Mộc về nhà. Ông Lê thấy khách quý lại chơi, xiết bao mừng rỡ , ân cần mời làm thượng khách. Nhà sư chỉ Lê Ích Mộc nói rằng: Ông là người từ thiện nên cậu bé này có quý tướng làm lên sự nghiệp lớn, rạng danh gia phong. Nếu cho cậu ấy xuất gia đầu phật, tương lai phong đỗ cao làm vinh hiển gia đình, tiền đồ không thể hạn lượng được. Ông Lê Văn Quang bèn hỏi: ý kiến con thế nào ?. Lê Ích Mộc nhận lời. Từ đó Lê Ích Mộc xuất gia học đạo gánh sách theo thầy đến ở chốn xa. Khoảng 5 năm, Lê Ích Mộc đủ thông hiểu các pho kinh phật tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp làng.
Ngày ngày ăn chay niệm phật, chăm chỉ sách đèn, ông gần gũi dân làng chỉ bảo họ cách làm ăn, làm thuốc chữa bệnh cho dân, hướng dẫn từ công việc cấy cày đồng áng đến cắm đăng đan lưới cho dân bắt tôm, cá. Sau những kỳ đi giảng kinh ở những vùng xa trở về, ông thường đem về những giống cây lạ phân phát cho dân làng
21
trồng. Đặc biệt là giống Lim ông mang về được dân làng trồng, đã cung cấp nguồn gỗ chủ yếu để dựng chùa , làm nhà cửa. Sống nơi cửa thiền đất phật, Lê Ích Mộc luôn thông cảm sâu sắc với những khó khăn của dân làng, ông khuyên mọi người hướng về cửa phật với lòng thành tâm của chính mình chứ không phải bằng những nghi lễ tốn kém. Không chỉ là một vị tăng sư chuyên tâm hằng dương phật pháp, mà ông còn là một người am hiểu sâu sắc giáo lý Khổng tử, Mạnh tử, tỏ tường sâu trình các phép thần thông huyền bí của Đạo giáo, Lão, Trung. Ông kế thừa được truyền thống “ nhập thế gia trụ phật pháp” của các thiền sư nổi tiếng như: Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Minh Không... chính nhờ các phương thuật huyền bí kết hợp với sự am hiểu về y học, thiên văn, chiêm tinh, lý số... của Lê Ích Mộc mà ngôi chùa Ráng đã trở thành một sơn môn lừng lẫy.
Dưới Triều Lê Thánh Tông, ông đi thi mấy lần mà không đỗ. Ông trở về quê nhà trụ trì tại chùa Ráng chuyên nghiên cứu kinh tam tạng nhà phật. Sách “ Đại việt sử ký toàn thư “ chép : “Mùa xuân tháng 2 năm Nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 ( 1502 ) đời Lê Hiến Tông, Triều đình mở hội thi kén người tài, một lần nữa, Lê Ích Mộc quyết tâm dùi mài kinh sử, ứng thi những mong đem trí tài giúp nước. Khoa thi năm ấy sĩ tử đi ứng thi có tới mấy mươi ngàn người, triều đình chọn lấy đỗ 61 người có bài thi xuất sắc nhất, trong đó Lê Ích Mộc người làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh ( Trạng nguyên ). Khi duyệt bài văn của Lê ích Mộc, nhà vua vô cùng sửng sốt, khen ngợi và mến phục tài văn chương của ông bèn sai ông đọc bài “ Chế thư ” của mình trước các ông nghè tân khoa, hai tay Lê Ích Mộc nâng lư hương đang bốc cháy rừng rực làm bỏng rộp hết cả da tay mà không biết.
Sách “ Công dư tiệp ký ” của Vũ Phương đề chép: Lê Ích Mộc tuổi đã cao mà chưa đỗ đạt gì thì tâm trạng cũng buồn, ông thường đến chùa Diên Phúc theo học thầy chùa và kinh phật. Kỳ thi Đình năm ấy, tự tay vua Hiến Tông ra đề thi hỏi về đạo trị nước của bậc Đế Vương với đề bài ra 9 dòng chữ. Thật là duyên kỳ phúc đã đến,bằng những hiểu biết sâu sắc của gần 30 năm đèn sách Lê Ích Mộc trình bày một cách mạch lạc, trôi chảy trên 25 trang giấy về niềm khát vọng trấn hưng phật giáo,
hiến nhiều kế sách về đạo trị nước của các bậc Đế Vương qua thực tế các triều đại. Văn ông ý tứ dồi dào, đầy ký ức, không bỏ sót ý nào, khi duyệt bài của ông, vua Hiến Tông, một ông vua có phong cách thi nhân thanh tao của thời Lê, vô cùng sửng sốt mà thốt nên rằng: “ Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa, Trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng bậc khôi nguyên”. Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên năm 44 tuổi. Từ khoa thi này, Triều đình có lệ treo Bảng Vàng ghi tên người đỗ ở cửa nhà Thái học càng thêm phần vinh hiển, ông là Trạng nguyên của Tam giáo, tinh thông Nho lão, am tường kinh Phật. Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên vào cái thời mà Phật giáo không còn là quốc giáo như những triều đại Lý – Trần trước đây. Lúc này, Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo tiến lên hàng chính thống. Bấy lâu, các triều đại phong kiến đã dựa vào chính khoa cử Nho giáo để tuyển chọn nhân tài, lấy người ra làm quan, bổ sung đội ngũ quan lại từ trung ương xuống tới các địa phương huyện, tổng. Bởi thế mà có nhiều người lao vào con đường cử nghiệp để tiến thân. Trên con đường hoan lỗ của các sĩ phu, cũng có nhiều người hanh thông hiển đạt, nhưng cũng không ít người bị trắc trở gian nan, mà thường là những người gặp trắc trở thì hay tìm đến triết lý và sự an ủi của Lão và Phật. Vậy nên, đường đời của các sĩ phu xưa thường là Nho, Phật, Lão. Con đường của Lê Ích Mộc thì lại khác, trước khi đỗ Trạng nguyên, ông đã là đạo sĩ, là sãi chùa. Đó là nét riêng biệt, độc đáo của ông.
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Lê ích Mộc bước vào cuộc đời làm quan trong giai đoạn thịnh trị của triều Lê sơ không còn nữa. Từ sau đời Lê Hiến Tông ngắn ngủi, các vua chúa cháu chắt của nhà Lê từ Uy Mục, Tương Dực trở đi đều biến ngai vàng thành cỗ xe hưởng lạc, tiến vào con đường xa hoa, thoái hoá cực độ trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của nhân dân lao động. Mâu thuẫn trong xã hội trở nên sâu sắc. Lê ích Mộc sinh ra và lớn lên ở vùng đất lam lũ, sống trong sự đùm bọc của bà con lao động nên ông rất hiểu và thông cảm sâu sắc với đời sống nhân dân nơi thôn dã; đồng thời chịu ảnh hưởng của thuyết “ từ bi hỷ xả ”, “lý vô chấp ”, “lẽ vô thường ”, “vô ngã” của nhà Phật. Ông thường hay giúp đỡ người nghèo, khuyên mọi người làm việc thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Năm 1527, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Mạc Đăng Dung xưng vương. Trong giai đoạn đầu, Vương triều mới có nhiều cải cách tiến bộ, được đông đảo nhân dân ủng hộ. Đông các đại học sỹ triều Lê là thám hoa Nguyễn Văn Thái, bạn đồng khoa với Trạng nguyên Lê Ích Mộc là một trong số cựu thần trí thức đầu tiên ủng hộ Mạc Đăng Dung và tiến cử Lê Ích Mộc với Đăng Dung. Ông bỏ tài trí, hiểu biết ra giúp triều đại mới với mong ước thực hiện ý nguyện của mình. Nhưng chỉ sau khi Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh qua đời, mâu thuẫn trong nội bộ vương triều Mạc trở lên gay gắt, tình hình có lúc nguy cấp, một số cựu thần có uy tín như cha con Lê Bá Lý, Nguyễn Thuyến đã bỏ nhà Mạc theo nhà Lê, dân tình hoang mang không biết theo ai, nên mặc dù làm quan đến chức Tả Thị Lang, đứng hàng thứ ba sau Thượng thư, Tham tri nhưng Trạng nguyên cảm thấy chán ngán, đã “ treo ấn từ quan ” về trí sĩ tại quê nhà. Nhớ thuở hàn vi, Lê Ích Mộc bỏ tiền ra tu sửa, mở mang chùa Ráng, lấy tên chữ là Diên Phúc tự và mở trường dạy học, đào tạo nhân tài cho quê hương, đất nước. Với tên chùa Diên Phúc, phải chăng ông muốn ghi nhớ về nhân duyên phúc trạch mà Trời, Phật ban cho ông trong nghiệp đời thi cử hay là lời cầu mong duyên Trời, phúc Phật đến với mọi người, mọi nhà, với làng quê yêu dấu?
Là người có học vấn sâu rộng, có đạo đức mẫu mực, Lê Ích Mộc còn là một thầy giáo tận tuỵ với nghề nghiệp, yêu thương học trò. Không chỉ luyện rèn học trò ông thường khuyên dạy dân làng cách sống, cách cư xử sao cho hoà thuận ấm êm. Ngôi chùa Diên Phúc và từ chỉ Thanh Lãng nhờ có Lê Ích Mộc mà trở thành trung tâm đào tạo nhân tài và giáo hoá của cả một vùng rộng lớn. Không ỷ lại là một nhà sư, một trí sĩ, ông đã tích cực cùng với nhân dân làng Ráng khai phá vùng đầm lầy ven sông, trồng cây gây rừng. Lê Ích Mộc đích thân trồng một rừng Lim xanh tốt, nhân dân địa phương được hưởng lợi hết đời này qua đời khác. Vết tích rừng lim “quan Trạng ” xưa nay còn đó... Nhờ có rừng lim này mà nhân dân địa phương có nguyên liệu tại chỗ để trùng tu Diên Phúc tự, xây đền Diên Thọ, mở rộng từ văn, xây đình Hoàng Giáp, chùa Lốt, chùa Vang...
Ngày 15 tháng 02 năm 1538, Lê Ích Mộc qua đời tại quê nhà, hưởng thọ 80 tuổi. Mộ phần của ông ngự tại rừng lim quan Trạng thuộc xóm Sỏi, thôn Thanh Lãng.