Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ - 2

nghệ thuật, của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ tranh chấp quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ trong thực tiễn. Thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ các vấn đề lí luận cơ bản về quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả; phân tích hệ thống quy định pháp luật hiện hành của Hoa Kỳ về bảo hộ quyền tác giả;so sánh tương quan với pháp luật Việt Nam; đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế.

Về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì Hoa Kỳ là quốc gia có hệ thống quy định về quyền tác giả tiên tiến trên thế giới, đồng thời là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam.

Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Luật Dân sự và Tư pháp quốc tế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả.

Chương 2: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ.

Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Chương 1‌

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ

Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ - 2


1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TÁC GIẢ


1.1.1. Sơ lược sự ra đời và phát triển của quyền tác giả [19]

Trong thời kỳ Cổ đại và thời kỳ Trung cổ người ta chưa biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu, như không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển sách đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ khác lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc. Khi không muốn bài viết bị thay đổi tác giả chỉ còn có cách gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác giả của Sachsenspiegel, một quyển sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị bệnh hủi.

Cùng với phát minh in (khoảng năm 1440), các bản sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng hơn. Nhưng tác giả vẫn chưa có được "quyền tác giả" ở bên cạnh và còn phải vui mừng là chẳng những tác phẩm được in mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một số tiền cho bản viết tay. Thế rồi đi đến trường hợp là bản in đầu tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm cho việc kinh doanh của nhà in đầu tiên khó khăn đi vì người này đã đầu tư lao động nhiều hơn và có thể cũng đã trả tiền cho tác giả, những người in lại tự nhiên là có thể mời chào sản phẩm của họ rẻ tiền hơn. Tác giả cũng có thể không bằng lòng với các bản in lại vì những bản in lại này thường được sản xuất ít kỹ lưỡng hơn: có lỗi hay thậm chí bài viết còn bị cố ý sửa đổi.

Vì thế, để chống lại tệ in lại, các nhà in đã xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là trong một thời gian nhất định. Lợi ích của nhà in trùng với lợi ích của nhà cầm quyền vì những người này muốn có ảnh hưởng đến những tác phẩm được phát hành trong lãnh địa của họ. Đặc biệt là nước Pháp do có chế độ chuyên chế sớm nên đã thực hiện được điều này, ít thành công hơn là ở Đức. Tại Đức một số hầu tước còn cố tình không quan tâm đến việc các nhà xuất bản vi phạm các đặc quyền từ hoàng đế nhằm để giúp đỡ các nhà xuất bản này về kinh tế và để mang vào lãnh thổ văn học đang được ưa chuộng một cách rẻ tiền. Những ý tưởng của Phong trào Khai sáng phần lớn là đã được truyền bá bằng các bản in lậu.

Khi thời kỳ Phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ. Tại nước Đức thí dụ như là Albrecht Dürer (1511) đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành cho người sáng tạo như là một cá nhân (quyền cá nhân) và chưa mang lại cho tác giả một thu nhập nào. Giữa thế kỷ XVI, các đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một thời gian nhất định.

Khi các nhà xuất bản bắt đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một độc quyền kinh doanh (thuyết về sở hữu của nhà xuất bản), ngay cả khi họ không có đặc quyền cho tác phẩm này. Vì thế mà việc in lại bị cấm khi các quyền từ tác giả được mua lại.

Mãi đến thế kỷ XVIII, lần đầu tiên mới có các lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc (và hiện tượng của sở hữu phi vật chất). Trong một bộ luật của nước Anh năm 1710, Statue of Anne, lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả sau đó nhượng quyền này lại cho nhà xuất bản. Sau một thời gian được thỏa thuận trước tất cả các quyền lại thuộc về tác giả. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của nghiệp hội các nhà xuất bản và phải có thêm ghi chú copyright để

được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm 1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: natural law). Tại Pháp một Propriété littéraire et artistique (sở hữu văn học và nghệ thuật) được đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Tại nước Phổ một bảo vệ tương tự cũng được đưa ra vào năm 1837. Cũng vào năm 1837 Hội đồng liên bang của Liên minh Đức quyết định thời hạn bảo vệ từ khi tác phẩm ra đời là 10 năm, thời hạn này được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời (post mortem auctoris) vào năm 1845. Trong Liên minh Bắc Đức việc bảo vệ quyền tác giả được đưa ra vào năm 1857 và được Đế chế Đức thu nhập và tiếp tục mở rộng sau đó. Trong Đệ tam Đế chế các tác giả chỉ là "người được ủy thác trong nom tác phẩm" cho cộng đồng nhân dân.

1.1.2. Khái niệm quyền tác giả

Khi một người tạo ra một tác phẩm văn học, âm nhạc, khoa học hay nghệ thuật, thì người đó sẽ trở thành chủ sở hữu của tác phẩm đó và tự do quyết định việc sử dụng nó, những người này được gọi là "nhà sáng tạo", "tác giả " hay "chủ sở hữu quyền" và họ có quyền kiểm soát số phận của tác phẩm. Một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả kể từ thời điểm tác phẩm được ra đời nên không cần tiến hành thủ tục gì, như đăng ký hoặc nộp lưu chiểu, để tác phẩm đó có điều kiện được bảo hộ. Bản thân các ý tưởng thì không được bảo hộ mà chỉ bảo hộ cách thức mà chúng được thể hiện.

Quyền tác giả - một bộ phận quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ - có đối tượng là một loại tài sản đặc biệt, là những sản phẩm trí tuệ có đặc tính chung là trừu tượng và vô hình (không giống với đối tượng của quyền sở hữu là tài sản hữu hình). Theo một cách chung nhất, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) định nghĩa quyền tác giả như sau: "Quyền tác giả là một thuật ngữ pháp lý chỉ quyền của người sáng tác đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ" [38].

Quyền tác giả là sự bảo hộ pháp lý dành cho chủ sở hữu các quyền đối với một tác phẩm nguyên gốc mà người đó tạo ra. Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh: copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí tuệ (intellectual property), vì thế việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ phải đi đôi với nhau. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.

Quyền tác giả bao gồm hai nhóm quyền chính: các quyền kinh tế và các quyền tinh thần - quyền nhân thân. Quyền tài sản là quyền của tác giả cho phép người khác khai thác tác phẩm của mình và hưởng lợi ích vật chất từ việc khai thác đó. Theo thông lệ và tập quán quốc tế thì quyền tài sản của tác giả được thực hiện thông qua việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình đã được bảo hộ bằng Luật Quyền tác giả. Pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật quốc tế, hầu hết đề ghi nhận rằng tác giả có quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác thực hiện các công việc cụ thể liên quan tới tác phẩm như sao in tác phẩm, trình diễn trước công chúng, phát thanh hoặc truyền tải tới công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng, dịch tác phẩm, chuyển thể tác phẩm…

Quyền nhân thân trong quyền tác giả được thực hiện để giữ mối quan hệ cá nhân giữa tác giả với tác phẩm. Quyền nhân thân này còn được sử dụng với tên gọi quyền tinh thần và bao gồm: quyền được đòi hỏi xác định chặt chẽ mối quan hệ giữa tác giả với tác phẩm; quyền được phản đối bất kỳ sự sửa đổi

hoặc bóp méo, xuyên tác tác phẩm; quyên lên án, tố các những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tác phẩm, làm phương hại thanh danh, tiếng tăm của tác giả. Quyền nhân thân được xem là độc lập với quyền tài sản và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao quyền của mình cho tổ chức, cá nhân khác

Cả hai nhóm quyền này thuộc về người sáng tạo ra tác phẩm - người có thể thực hiện các quyền đó. Thực hiện các quyền có nghĩa là anh ta có thể tự mình sử dụng tác phẩm hoặc cho phép người khác sử dụng tác phẩm hoặc cấm người khác sử dụng tác phẩm của mình. Nguyên tắc chung là các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả không thể được sử dụng khi không được phép của chủ sở hữu quyền. Tuy nhiên, có một số ít ngoại lệ được thể hiện trong luật bản quyền của các quốc gia. Theo nguyên tắc, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và tối thiểu 50 năm sau khi tác giả qua đời.

Các khía cạnh pháp lý này được cụ thể hóa trong các công ước quốc tế mà hiện nay hầu hết các quốc gia đều là thành viên. Khi gia nhập, các quốc gia thành viên phải có hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.

Ở cấp độ quốc tế, các quyền kinh tế và tinh thần được thừa nhận trong Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được thông qua năm 1886, Công ước này đã được sửa đổi nhiều lần có tính đến tác động của công nghệ mới đối với mức độ bảo hộ mà nó quy định. Công ước này do Tổ chức Sở hữu Thế giới (WIPO), một trong những cơ quan quốc tế chuyên ngành của hệ thống Liên hợp quốc, quản lý. Quyền tác giả là quyền của tổ chức cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

Theo quan điểm của Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ (United States Copyright Office) trực thuộc Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (Library of Congress): "Quyền tác giả là một sự bảo hộ pháp lý của Nhà nước dành cho tác giả đối với tác phẩm nguyên gốc mà người đó tạo ra, bao gồm tác phẩm văn học, tác phẩm

kịch, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm mỹ thuật và một số sản phẩm trí tuệ khác. Sự bảo hộ này có giá trị đối với cả các tác phẩm công bố và không công bố".

Tóm lại, các quan điểm trong khoa học pháp lý của Việt Nam, Hoa Kỳ cũng như quan điểm của các tổ chức quốc tế về cơ bản đều thống nhất: Quyền tác giả là quyền của người sáng tác đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do họ sáng tạo. Quyền tác giả bao gồm những quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả liên quan đến tác phẩm; các quyền này được bảo hộ bởi pháp luật.

1.1.3. Đặc điểm của quyền tác giả

Thứ nhất, quyền tác giả là quyền gắn liền với nhân thân, danh tiếng của của chủ thể sáng tạo, là sự thể hiện quyền cơ bản của con người, đó là quyền tự do sáng tạo

Lao động, sáng tạo là một trong các đặc tính và cũng chính là động lực phát triển của loài người. Chính vì vậy, quyền lao động, trong đó có lao động trí óc là một quyền cơ bản của con người. Theo quá trình phát triển của nhân loại, lao động trí óc ngày càng có vai trò quan trọng, quyền lao động sáng tạo trong lĩnh vực này không chỉ được bảo vệ mà còn khuyến khích vì sự tiến bộ của loài người. Tất cả mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học để sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ và khi sáng tạo ra tác phẩm họ trở thành tác giả có các quyền được pháp luật bảo hộ đối với tác phẩm của

mình. Điều đó đã được Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định tại Điều 27:

1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn

hoá của cộng đồng, đươc

thưởng thứ c nghê ̣thuât

và chia xẻ những

thành tựu và lợi ích của tiến bộ khoa hoc.


2. Mọi người đều có quyền được bảo hộ đối với những

quyền lơi

về vât

chất và tinh thần xuất phá t từ công trình khoa hoc ,

văn hoc

và nghê ̣thuât

mà ngườ i đó là tá c giả [20].

Sự khẳng định này cho thấy quyền tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó là một quyền cơ bản của con người, gắn liền với quá trình sáng tạo và phát triển của con người. Quyền tác giả cần phải được bảo hộ không chỉ trong các quy định pháp luật quốc gia mà còn cả những cam kết quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.

Thứ hai, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây: (i) Đặt tên cho tác phẩm; (ii) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; (iii) Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; và (iv) Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: (i) Làm tác phẩm phái sinh; (ii) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;

(iii) Sao chép tác phẩm; (iv) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; (v) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; và

(vi) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan tiến hành các biện pháp hành chính hoặc chế tài chống lại các vi phạm quyền tác giả.

Thứ ba, quyền tác giả có thể trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán (chuyển quyền)

Quyền tác giả là sự bảo hộ của pháp luật đối với sự sáng tạo từ trí óc con người. Đối tượng của quyền tác giả là các sáng tác văn học, nghệ thuật và khoa học - là những thành quả lao động trí tuệ (được thể hiện dưới hình thức nhất định). Do đó, đối tượng của quyền tác giả có đặc tính vô hình phân biệt với đối tượng của quyền sở hữu tài sản hữu hình.

Với sở hữu tài sản, thông thường người ta hiểu theo nghĩa truyền thống là sở hữu tài sản vật chất, tài sản hữu hình - là những tài sản mà con người có

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 10/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí