Đánh Giá Về Vai Trò Của Nhà Nước Với Công Nghiệp Hóa Hướng Về Xuất Khẩu Giai Đoạn Từ 1997 Đến Nay


chục ngàn sinh viên tốt nghiệp các trường của Mỹ, Anh, Ốxtrâylia, New Zealand… Đối với sinh viên là người bản địa, Malaixia có chính sách hỗ trợ kinh phí để gửi tham gia các khoá đào tạo chọn lọc ở nước ngoài.

Nhà nước Malaixia có chính sách thu hút lao động có trình độ cao thông qua việc nới rộng các điều kiện để các doanh nghiệp thuê lao động nước ngoài, nhất là thuê lao động có kỹ thuật cao. Đặc biệt, để có nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển các ngành công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, nhà nước Malaixia đã đề ra chính sách khai thác tài năng toàn cầu. Malaixia tiếp tục thực hiện Chương trình thu nhận các nhà khoa học Malaixia và ngoại quốc đã được đề ra năm 1995. Năm 2000, Malaixia đề ra Chương trình hồi hương các chuyên gia Malaixia ở nước ngoài. Mục tiêu của chương trình này là tạo ra lực lượng lao động trình độ thế giới và do vậy, nhà nước Malaixia đã giao cho Bộ Nhân lực và Bộ Khoa học – công nghệ và đổi mới là thành viên chỉ định trong ban điều phối. Chính sách ưu đãi đối với người trở về bao gồm: Giảm thuế thu nhập đối với kiều hối nhận được trong vòng 2 năm kể từ ngày về nước; Giảm thuế nhập khẩu cho tất cả đồ dùng cá nhân mang về nước gồm cả 2 xe ô tô cho mỗi gia đình; và Phê chuẩn chế độ cư trú thường xuyên cho vợ/ chồng, con cái trong vòng 6 tháng sau khi về nước. Nhà nước Malaixia cũng kêu gọi những lao động là người Malaixia có tay nghề cao ở nước ngoài về nước, đồng thời khuyến khích thu hút các chuyên gia giỏi từ California (Mỹ), Bangalore (Ấn Độ)... đến Malaixia làm việc với nhiều chính sách ưu đãi về thu nhập và các điều kiện sinh hoạt.

f. Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật

Để phát triển hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế và thu hút FDI, Malaixia thành lập một quỹ đặc biệt "Quỹ phát triển cơ sở hạ tầng" với nguồn vốn ngân sách cấp ban đầu là 5 tỷ RM. Quỹ này có nhiệm vụ trợ giúp các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng như: Cải tạo, nâng cấp mạng lưới đường sắt, đường ray điện từ; nâng cấp hệ thống cảng Kuantan, TangJung; nâng cao năng


lực khai thác một số đường cao tốc; các dự án cung cấp nước, thoát nước và xử lý rác thải...

- Về vận tải biển, Malaixia đang vươn lên cạnh tranh với Xingapo để trở thành một trung tâm vận tải biển lớn trong khu vực. Thời gian gần đây, một số hãng vận tải lớn đã chuyển trụ sở từ Xingapo sang Malaixia như: Năm 2000 công ty vận tải biển Maersk Sealand của Đan Mạch, năm 2002 công ty Evergreen của Đài Loan đã chuyển đến cảng Tanjung Pelepas. Tập đoàn vận tải biển China Shipping Group của Trung Quốc chuyển đến cảng Westport ở Port Klang. Malaixia đang xây dựng tập đoàn vận chuyển bằng container có tầm cỡ vị trí hàng đầu thế giới.

- Về vận tải hàng không, ngoài việc mở rộng nâng cấp hạ tầng sân bay, trang bị thêm máy bay, mở các đường bay mới, Hãng vận tải quốc gia Maskargo của Malaixia đã triển khai dịch vụ chuyển tải cảng biển tại sân bay, đây là sân bay đầu tiên trên thế giới có dịch vụ này, nó cho phép giải phóng hàng hóa vận tải biển - hàng không nhanh thông quan qua cảng của Malaixia tại sân bay quốc tế Kuala Lumpur, Klia. Malaixia cũng đã đầu tư 29,1 triệu USD xây dựng cảng hàng không giá rẻ đầu tiên ở châu Á để phục vụ các hãng hàng không giá rẻ trên thế giới với công suất ban đầu 10 triệu khách/năm.

- Về hệ thống viễn thông của Malaixia phát triển nhanh, đảm bảo cung cấp các dịch vụ phong phú với các mạng hiện đại, kỹ thuật số hoàn toàn, các dải băng tần không dây cung cấp dữ liệu tốc độ cao và dung lượng lớn. Ngoài việc sử dụng vệ tinh MEASAT thế hệ 1 và 2 kết nối vào mạng thông tin vũ trụ năm 1996, Malaixia đã phóng vệ tinh siêu nhỏ Tiungsat 1 vào năm 2000. Giá cước viễn thông nội địa và quốc tế của Malaixia thuộc loại thấp nhất trong khu vực.

Đặc biệt, Malaixia đầu tư xây dựng “Siêu hành lang thông tin đa phương tiện - MSC” năm 1996 và trở thành trung tâm năng động và hấp dẫn vào loại nhất khu vực châu Á về công nghệ thông tin và viễn thông - ICT. Năm 1998, nhà nước Malaixia phê chuẩn dự án phát triển “Thành phố tri thức” Cybejaya (là một


phần trong chương trình MSC) với số vốn đầu tư 5 tỷ RM (1,25 tỷ USD), trong đó có xây dựng các cơ sở hạ tầng. Hiện đã có 1000 TNCs, công ty nước ngoài và công ty trong nước đầu tư vào khu vực MSC với các sản phẩm viễn thông, đa phương tiện, các giải pháp hữu ích, dịch vụ và R&D. Thực tế, với chủ trương phát triển cơ sở hạ tầng, kể cả hạ tầng mềm đã tạo điều kiện cho sự hình thành cấu trúc kinh tế mới, điện tử hoá hầu hết các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, tạo ra công năng mới cho nền kinh tế với năng suất lao động tăng cao vượt trội, thực sự góp phần tăng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.

Chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Malaixia không ngừng tăng lên. Năm 1999, Malaixia chi 3 tỷ USD để khôi phục nhiều dự án về cơ sở hạ tầng; năm 2004 sử dụng 8,5 tỷ RM (2,24 tỷ USD) trong kế hoạch chi 10 tỷ RM cho các dự án đầu tư khoảng 2 năm để ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai... Hiện nay, Malaixia cũng đề ra hàng loạt dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó đáng chú ý là chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn trị giá 1,5 tỷ USD.

g. Chính sách thương mại và thị trường

- Khi khủng hoảng, để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, Malaixia sử dụng biện pháp tình thế với cơ chế thanh toán bằng hàng đổi hàng trong nội bộ khu vực Đông Nam Á và cả với Trung Quốc, Nhật Bản. Điều này góp phần giảm bớt sự phụ thuộc của đồng RM vào đồng USD và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời, Malaixia tiếp tục thực hiện chính sách tự do hoá bằng việc khuyến khích các công ty chủ động nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Thực hiện miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu thô, hàng hoá trung gian cho các doanh nghiệp trong khu vực chế tạo để xuất khẩu. Bãi bỏ thuế đối với mặt hàng tủ lạnh, vô tuyến và điều hoà nhiệt độ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh với thị trường bên ngoài. Miễn chi phí sử dụng một số sản phẩm dịch vụ như bảo hiểm, tàu bè, cảng đối với các công ty có hoạt động kinh doanh xuất khẩu.


Malaixia là thành viên tích cực trong việc tìm ra những biện pháp thúc đẩy thương mại và đầu tư lẫn nhau. Malaixia đã ký “Tuyên bố chung hợp tác Đông Á” vào 12-1999; tiến hành kế hoạch “Hệ thống chung các điều khoản thuế ASEAN (GSP)”; thúc đẩy Hiệp định điện tử ASEAN nhằm tiết lập một cơ sở hạ tầng thông tin, thúc đẩy thương mại điện tử và tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán các sản phẩm công nghệ và dịch vụ giữa các nước thành viên; đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA để đối phó với Trung Quốc gia nhập WTO và tránh những rối ren về kinh tế.

- Về chính sách thị trường, tiếp tục củng cố và duy trì mối quan hệ thương mại truyền thống với Mỹ, Nhật Bản, NIEs, ASEAN và châu Âu. Những năm 1998 - 1999, Mỹ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Malaixia về các sản phẩm cao su, vải, quần áo, các sản phẩm quang học và kỹ thuật cao, điện, điện tử, đồ gỗ... Tuy năm 2001, xuất khẩu của Malaixia sang Mỹ giảm mạnh nhưng nửa đầu năm 2002 đã đạt mức tăng trưởng hai con số nhờ sự phục hồi nhanh của nền kinh tế Mỹ sau sự kiện 11/9. Đặc biệt, sau khủng hoảng, quan hệ thương mại với Trung Quốc được chú trọng hơn. Bên cạnh đó, Malaixia có chính sách nhằm giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế - thương mại vào Mỹ thông qua mở rộng quan hệ buôn bán sang các nước khác. Năm 1998, tỷ phần xuất khẩu hàng hóa của Malaixia sang châu Á chiếm 50,8%.

2.2.2.4. Đánh giá về vai trò của nhà nước với công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu giai đoạn từ 1997 đến nay

* Về những mặt được

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á đánh dấu một bước ngoặt trong chiến lược phát triển của Malaixia bởi khi sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở nên nổi bật, khi các nhân tố quyết định sự thành công của mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu đã bộc lộ các khiếm khuyết của nó: sự đơn điệu trong cơ cấu xuất khẩu; nguồn lực phát triển chưa được đa dạng hóa; tỷ giá hối đoái khiến cưỡng theo hướng gia tăng đồng nội tệ


để khuyến khích thu hút đầu tư, trong khi thị trường trong nước chưa thực sự mở đối với bên ngoài, nhất là về thị trường tài chính; khu vực tư nhân trong nước có khuynh hướng độc quyền đưa đến các mối nguy hiểm cho tốc độ và chất lượng tăng trưởng v.v...

- Sự điều chỉnh mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa của nhà nước Malaixia theo hướng vẫn tiếp tục chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu nhưng là xuất khẩu dựa trên chính sách đa dạng hóa sản phẩm; mở cửa mạnh thị trường bên trong trên cơ sở xóa bỏ hàng loạt các rào cản về thương mại, đầu tư và tài chính. Điều đó cũng có nghĩa là công nghiệp hóa thích ứng với tự do hóa, xuất và nhập khẩu đều phải được tự do hóa và vấn đề là cuối cùng dành được ưu thế cạnh tranh trên việc phát huy các nguồn lực và lựa chọn các thị trường tốt nhất, tiếp cận được với các thị trường lớn nhất. Điều đó cũng có nghĩa là, nhà nước giảm dần, tiến tới loại bỏ việc duy trì bảo hộ dưới mọi hình thức bởi điều đó sẽ gây nhiều trở ngại cho sự phát triển; làm mất cơ hội tiếp cận thị trường cơ hội và quốc tế; gây “hiệu ứng trễ” trong phản ứng chính sách với bên ngoài và làm méo mó các hoạt động quản trị - điều hành nền kinh tế [63, tr. 112].

- Nhà nước điều chỉnh mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa, bằng những biện pháp tích cực, đồng bộ và mang tính hiệu quả như cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng, mở rộng tự do hoá đầu tư và tăng cường thu hút FDI vào những ngành kinh tế mũi nhọn, tiến hành cải tổ cơ cấu ngành kinh tế, đồng thời chú trọng nâng cấp hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nên chỉ trong thời gian ngắn, kinh tế Malaixia đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng.

Hoạt động xuất khẩu của Malaixia đã thu được nhiều kết quả quan trọng và có nhiều đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Thực tế, xuất khẩu của Malaixia tiếp tục tăng mạnh từ sự phát triển của khu vực công nghiệp chế tạo. Điều đó chứng tỏ định hướng phát triển và những giải pháp tác động có hiệu quả của nhà nước.


Bảng 2.6: Xuất nhập khẩu của Malaixia (1996 - 2007)

Đơn vị tính: tỷ USD



1996

1997

1998

1999

2000

2006

2007

Xuất khẩu

78,33

78,519

73,021

84,521

98,24

161,248

193,22

Nhập khẩu

78,42

78,536

58,130

65,492

82,22

131,720

161,92

Thặng dư thương mại


- 0,09


- 0,17


14,891


19,029


16,02


29,528


31,30

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.

Vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Malaixia - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 15

Nguồn: Asian Development Bank; SEAM 2001; Bộ Khoa học và Công nghệ – Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2007), ASEAN – 40 năm phát triển khoa học công nghệ; http://www.mida.gov.my/

Đáng chú ý là các sản phẩm công nghệ cao luôn chiếm trên 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng chế tạo. Năm 1999 chiếm 59%; năm 2000 chiếm 60%; năm 2003 là 59%; năm 2006 vẫn còn chiếm 54%. Năm 2007, khu vực chế tạo chiếm khoảng 30,3% GDP và xuất khẩu hàng hoá chế tạo đóng góp tới 74,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Malaixia. Từ một nước đứng đầu thế giới về sản xuất cao su và thiếc, đến nay, Malaixia đã trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về vi mạch điện tử, ổ cứng máy tính, các sản phẩm audio và video, điều hoà không khí.

Nhìn chung, từ năm 1998 trở lại đây, nhờ tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ khá cao, Malaixia luôn trong trạng thái thặng dư thương mại. Trong bối cảnh thương mại quốc tế có nhiều biến động, cán cân thương mại của Malaixia vẫn thặng dư, năm 2006 đạt 29,528 tỷ USD và năm 2007 đạt 31,3 tỷ USD.

Hoạt động xuất khẩu đã góp phần tích cực đưa nền kinh tế Malaixia vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế và tiếp tục tăng trưởng. Năm 2002, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,4%; năm 2004 đạt 6,8%; năm 2007 đạt 6,3%. Trong đó, các


ngành công nghiệp chế tạo đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10,7%/năm giai đoạn 1995-2000 và 8,3%/năm giai đoạn 2001-2005. Năm 2006, GDP bình quân đầu người đạt 5.610,7 USD; năm 2007 đạt 6.994 USD.


12

10.8

10

9.2

8

6.8

6

5.4

5.9

6.3

5

4.7

5.8

4

4.5

4.1

2

2.3

0

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Tăng trưởng GDP Tăng trưởng Công nghiệp

Nguồn: http://web.worldbank.org/wbsite/external/countries


Hình 2.4.Tốc độ tăng trưởng GDP của Malaixia (2002 – 2007)


- Chính sách thúc đẩy tăng trưởng của Malaixia đồng thời gắn liền với sự nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng năm 2003 của Malaixia ở vị trí 29/102 nước; năm 2005 lên vị trí 24/117 nước. Trong năm 2005, vị trí xếp hạng của Malaixia cho các chỉ số thành phần đều có sự tiến bộ và ở vị trí cao như: chỉ số công nghệ tăng lên 2 bậc, từ vị trí 27/104 nước lên vị trí 25/117 nước; chỉ số môi trường vĩ mô tăng từ vị trí 20 lên vị trí 19; năng lực cạnh tranh kinh doanh của Malaixia xếp thứ 23 trong năm 2004 và 2005.


Đồng thời, cơ cấu ngành kinh tế của Malaixia đã có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.

Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ

100%

90%

80%

70%

60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%

43.54

43.51

51.74

40.08

41

48.22

47.34

48.65

50.43

50

8.24

9.15

9.61

9.49

9

2001 2002 2003 2004 2006


Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2006, tr. 683 - 697.

Hình 2.5: Cơ cấu ngành kinh tế của Malaixia (2001 – 2006)


Năm 2001, nhóm ngành nông, lâm, thủy sản chỉ còn chiếm 8,24% GDP, trong khi công nghiệp và xây dựng là 48,22% và dịch vụ là 43,54%. Năm 2006, nông nghiệp chiếm khoảng 9% GDP, công nghiệp là 50% và dịch vụ là 41%. Như vậy, trong cơ cấu ngành kinh tế của Malaixia, công nghiệp hiện là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong số các ngành kinh tế.

Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu sản lượng các ngành kinh tế, cơ cấu lao động cũng có những thay đổi mạnh. Tỷ trọng việc làm trong khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2005, trong tổng số 10.043 nghìn người có việc làm, lao động trong ngành nông nghiệp là 1.478 nghìn người (chiếm 14,7%), trong khi đó số người làm việc trong khu vực công nghiệp chế biến là 1.990 nghìn người (chiếm 19,8%).

Xem tất cả 210 trang.

Ngày đăng: 02/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí