là vợ, chồng, con của người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc của công dân Việt Nam.
- Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 02/07/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển du lịch.
- Quyết định số 718/QĐ-BVHTTDL của BVHTTDL về việc ban hành Bộ Quy tắc Ứng xử văn minh du lịch trên quy mô toàn quốc.
- Nghị định số 07/2017/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thực hiện thí điểm cấp thị thực điển tử cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật và văn bản dưới luật cũng thể hiện nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến mục tiêu Chiến lược phát triển du lịch. Cụ thể:
Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật chậm được xây dựng và ban hành: Luật du lịch được Quốc hội thông qua năm 2005 nhưng 2 năm sau Chính phủ mới ban hành Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 1/6/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật du lịch (Nghị định 92/2007/NĐ-CP); 3 năm sau các thông tư hướng dẫn cụ thể mới được ban hành. Một số văn bản dưới Luật thiếu tính dự báo, tính ổn định, sớm phải sửa đổi.
Một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật du lịch còn chưa tạo thuận lợi cho công tác quản lý cũng như hoạt động du lịch như: Quy định về lãi suất và việc sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp lữ hành quốc tế; quy định về trích nộp phí cấp, đổi, thu hồi thẻ HDV, quy định về kiểm tra phương tiện vận chuyển khách du lịch. Cá biệt còn có một số văn bản hướng dẫn còn không thống nhất với nội dung Luật như: việc mua bảo hiểm cho khách du lịch; việc quy định về thời gian có giá trị của Chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch và giá trị thẻ hướng dẫn viên; một số quy định về kinh doanh lữ hành còn chưa rõ ràng
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, để hoạt động kinh doanh du lịch vận hành đồng bộ, việc xây dựng ban hành các chính sách có liên quan phục vụ cho phát triển du lịch là không thể thiếu. Dưới dự chỉ đạo của Chính phủ và Ban Chỉ đạo nhà nước về Du lịch, ngành du lịch và các ngành có liên quan cùng xây dựng và triển khai các chính sách liên quan đến du lịch như: Xuất nhập cảnh, hải quan, giao thông vận tải, tài chính, tiền tệ, an ninh quốc phòng... nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn; tạo môi trường thuận lợi hơn cho phát triển du lịch trên phạm vi cả nước.
Ngày 22/11/2016, Quốc hội thông qua Nghị quyết về thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử (e - visa) cho người nước ngoài nhập cảnh vảo Việt Nam. Theo đó, việc cấp thị thực điện tử sẽ được thực hiện trong thời hạn 2 năm, áp dụng từ 1/2/2017 đối với công dân 40 quốc gia. Cùng với chính sách miễn thị thực là cấp thị thực tại cửa khẩu, điều này là phù hợp với nội dung thứ 7 trong Chiến lược Du lịch ASEAN 2016 - 2025 là “Tăng cường tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch (Điều 2 của Hiệp định Du lịch ASEAN 2002)” một trong những giải pháp hữu hiệu để tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Tất cả những điều này nhằm hướng tới thực hiện đầy đủ những nội dung cam kết về du lịch của Việt Nam trong AEC.
Đặc biệt, Luật Du lịch Việt Nam số 09/2017/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2017 và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trước hết là tiền đề hết sức quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược và Quy hoạch cho giai đoạn tiếp theo của Việt Nam, đồng thời cũng đảm bảo tham gia và thực hiện được đầy đủ các mục tiêu đặt ra trong Chiến lược Du lịch ASEAN 2016 - 2025.
Bảng 3.8. Đánh giá mức độ thành công của vai trò nhà nước trong xây dựng chính sách phát triển du lịch Việt Nam trước và sau khi hình thành AEC
Trước khi hình thành AEC | Sau khi hình thành AEC | ||||||
Ký hiệu | ĐBQ chung | Trong đó | Ký hiệu | ĐBQ chung | Trong đó | ||
M1 | M2 | M1 | M2 | ||||
BPL1 | 4,2 | 4,4 | 4,0 | APL1 | 4,19 | 4,3 | 4,08 |
BPL3 | 3,96 | 4,2 | 3,72 | APL3 | 3,98 | 4,1 | 3,86 |
BPL2 | 3,94 | 4,1 | 3,78 | APL2 | 3,75 | 3,85 | 3,65 |
BCS9 | 4,59 | 4,4 | 4,78 | ACS9 | 4,35 | 4,4 | 4,3 |
BCS1 | 4,58 | 4,35 | 4,48 | ACS2 | 4,15 | 4,0 | 4,3 |
BCS2 | 4,51 | 4,4 | 4,62 | ACS8 | 4,0 | 3,8 | 4,2 |
BCS3 | 4,23 | 4,1 | 4,36 | ACS1 | 3,98 | 4,29 | 3,78 |
BCS5 | 4,14 | 4,3 | 4,08 | ACS4 | 3,60 | 3,83 | 3,37 |
BCS8 | 3,7 | 3,86 | 7,54 | ACS6 | 3,48 | 3,21 | 3,65 |
BCS7 | 3,68 | 3,33 | 3,72 | ACS5 | 3,42 | 3,2 | 3,64 |
BCS4 | 3,63 | 3,21 | 4,05 | ACS3 | 3,14 | 3,1 | 3,18 |
BCS6 | 3,39 | 3,6 | 3,28 | ACS7 | 2,51 | 2,35 | 2,57 |
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Tình Hình Phát Triển Du Lịch Việt Nam, Về Asean Và Cộng
- Một Số Chỉ Tiêu Cơ Bản Phát Triển Du Lịch Việt Nam Trước Và Sau Khi Hình Thành Aec
- Phân Tích Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Phát Triển Du Lịch Việt Nam Sau Khi Hình Thành Aec
- Về Vai Trò Xây Dựng Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Và Phát Triển Du Lịch
- Đánh Giá Mức Độ Thành Công Của Vai Trò Nhà Nước Trong Hợp Tác Quốc
- Đánh Giá Tác Động Của Vai Trò Nhà Nước Đến Phát Triển Du Lịch Sau Khi Hình Thành Aec Chia Theo Hai Nhóm Đối Tượng Điều Tra
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
Nguồn: Kết quả phân tích từ dữ liệu nghiên cứu của tác giả
Nội dung vai trò “Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách phát triển du lịch” bao gồm 3 tiêu chí đánh giá:
BPL1, APL1: Văn bản, chính sách liên quan đến quản lý du lịch là đồng bộ,
được ban hành kịp thời, hiệu lực, hiệu quả
BPL2, APL2: Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong hoạt động du lịch đáp ứng với yêu cầu thực tiễn phát triển
BPL3, APL3: Văn bản, chính sách về du lịch thường xuyên được kiểm tra; tổng kết rút kinh nghiệm
Sau khi hình thành AEC, nội dung vai trò “xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách phát triển du lịch” với hệ số điểm của tiêu chí đánh giá APL1: Văn bản, chính sách liên quan đến quản lý du lịch là đồng bộ, được ban hành kịp thời, hiệu lực, hiệu quả là 4,19 điểm, đây là tiêu chí đánh giá có điểm số lớn nhất trong các tiêu chí đánh giá mức độ thành công của vai trò xây dựng hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển du lịch; tiêu chí đánh giá có điểm bình quân thấp nhất là APL2: Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong hoạt động du lịch đáp ứng với yêu cầu thực tiễn phát triển là 3,75 ĐBQ/5.
Khi so sánh mức độ thành công của vai trò “Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách phát triển du lịch” trước và sau khi hình thành AEC cho thấy: điểm bình quân của 2 tiêu chí đánh giá APL1 và APL2 (4,19/5và 3,75/5) thấp hơn BPL1 và BPL2 (4,2/5 và 3,94/5). Điều này hoàn toàn logic, bởi lẽ: Khi hình thành AEC, đi liền với đó là các Hiệp định; cam kết; thỏa thuận hợp tác mà Việt Nam đã tham gia ký kết, nhưng du lịch Việt Nam vẫn còn chậm chưa bắp kịp được những sự thay đổi này. Hơn nữa, so với các nước việc xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn; quy chuẩn của Việt Nam là yếu hơn, mà tiêu chuẩn; quy chuẩn là một công cụ để Việt Nam hội nhập du lịch vào AEC.
Nội dung vai trò “Chính sách phát triển du lịch hiệu quả, thông thoáng, được ưu đãi” bao gồm 9 tiêu chí đánh giá
BCS1, ACS1: Chính sách tài chính BCS2, ACS2: Chính sách tín dụng BCS3, ACS3: Chính sách thuế BCS4, ACS4: Chính sách đất đai
BCS5, ACS5: Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch BCS6, ACS6: Chính sách xuất cảnh, nhập cảnh, hải quan
BCS7, ACS7: Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
BCS8, ACS8: Chính sách về ứng dụng khoa học, công nghệ
BCS9, ACS9: Chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Sau khi hình thành AEC, tiêu chí đánh giá ACS9: Chính sách xây dựng kết cấu
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với số điểm là 4,35/5, đây là tiêu chí đánh giá có mức độ thành công lớn nhất. Trong thực tế hàng chục tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và hơn 300.000 tỷ đồng đã được đầu tư từ năm 2006 - 2017. Tiêu chí đánh giá có mức độ thành công thấp nhất là ACS7: Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch với hệ số điểm thành công là 2,51 (trước khi hình thành AEC tiêu chí đánh giá BCS7 mức độ thành công với số điểm là 4,14). Điều này cũng hoàn toàn đúng, bởi lẽ so với các nước trong ASEAN thì Việt Nam là nước có chất lượng nguồn nhân lực đang bị đánh giá là một trong những yếu tố kém nhất của du lịch Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam sẽ phải tham gia thực hiện Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN (MRA - TP), nguồn nhân lực du lịch Việt Nam nếu không nâng cao trình độ chuyên môn, thì du lịch Việt Nam sẽ thua ngay trên sân nhà.
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố vào tháng 4/2017 mức độ ưu tiên cho du lịch và lữ hành của Việt Nam xếp thứ 119/141 quốc gia (tăng 18 bậc so với năm 2015). Điều này phần nào phản ánh sự thành công của nhà nước trong việc ban hành các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch.
Nghiên cứu tổng thể bảng 3.8 cho thấy: Trước khi hình thànhh AEC các chính sách phát triển du lịch được hỏi, cho kết quả điểm bình quân từ 3,39 đến 4,59. Nhưng sau khi hình thành AEC các tiêu chí đánh giá, cho kết quả điểm bình quân từ 2,51 đến 4,35. Trong đó, các tiêu chí ACS2: Chính sách tín dụng; ACS8: Chính sách về ứng dụng khoa học, công nghệ; ACS4: Chính sách đất đai; ACS6: Chính sách xuất cảnh, nhập cảnh, hải quan cho kết quả điểm bình quân cao hơn trước khi hình thànhh AEC. Còn các tiêu chí có có điểm bình quân thấp hơn là ACS1: Chính sách tài chính; ACS3: Chính sách thuế; ACS7: Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch. Đặc biệt tiêu chí ACS7: Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch được đánh giá thấp nhất chỉ được 2,51 điển (trước khi hình thành AEC đươc 3,68 điểm). Điều này có nghĩa, các nhà quản lý và các doanh nghiệp đều đánh giá cao mức độ thành công vai trò này của nhà nước. Tuy nhiên trong bối cảnh hình thành AEC, hợp tác quốc tế về du lịch ngày càng trong xu thế sâu rộng, với những cam kết; thỏa thuận đã, đang và sẽ thực hiện, vì vậy các nhà quản lý và các doanh nghiệp đều kỳ vọng nhiều hơn nữa vào những chính sách phát triển du lịch của nhà nước, thực sự tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch.
Về chính sách tài chính
Nhà nước tăng ngân sách cho công tác quy hoạch, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, hoạt động xúc tiến du lịch, bảo vệ; tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, nghiên cứu; ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Quy hoạch dự báo nhu cầu nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch giai đoạn 2013 - 2017 là 1.931 nghìn tỷ đồng (tương đương 94,2 tỷ USD). Trong đó nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 8 - 10% để hỗ trợ phát triển hạ tầng khung các khu du lịch quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến quảng bá và bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch. Theo Quy hoạch, giai đoạn đầu 2011 - 2015, nhu cầu đầu tư khoảng nghìn tỷ đồng (tương đương 18,5 tỷ USD), trong đó hỗ trợ từ ngân sách khoảng 37 nghìn tỷ đồng. Điều này, cũng đánh dấu sự thay đổi về chính sách tài chính cho đầu tư phát triển du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế giai đoạn vừa qua, chỉ có nguồn hỗ trợ từ ngân sách là khó khăn, không đáp ứng theo yêu cầu. Vì vậy, hiệu quả công tác hỗ trợ phát triển hạ tầng khu du lịch còn nhiều hạn chế.
Về chính sách tín dụng
Việc triển khai cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp để phát triển du lịch và dịch vụ du lịch đã góp phần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào một số dịch vụ, nâng cấp nhà vệ sinh, xây dựng những chỗ nghỉ chân cho khách du lịch.
Với mục tiêu lớn là kết nối không gian du lịch mở rộng sang các quốc gia khu vực ASEAN, nhiều chính sách ưu đãi tín dụng đã được thực hiện để tài trợ vốn trung dài hạn cho các dự án đầu tư hạ tầng kết nối du lịch các tuyến du lịch liên tỉnh, liên quốc gia. Đồng thời, nhiều chương trình tài trợ cho các dự án xanh như các mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và các dự án kết hợp tạo ra sinh kế mới cho người dân chịu ảnh hưởng từ xâm nhập mặn, gắn với ứng phó tác động từ biến đổi khí hậu cũng được triển khai.
Điều này cho thấy rằng, chính sách tín dụng sẽ mở ra cơ hội để Việt Nam thực hiện tốt Định hướng chiến lược 2 của Chiến lược du lịch ASEAN 2016 - 2025 là: “Đảm bảo tính bền vững và toàn diện của Du lịch ASEAN”.
Về chính sách thuế
Nhiều chính sách liên quan về thuế nhà thầu, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với hoạt động khách sạn, chính sách thuế liên quan hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành, các quy định về nhập khẩu các trang thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dụng
cần thiết để phát triển du lịch cao cấp mà trong nước chưa sản xuất được đã được ban hành như: Thông tư 130/2016/TT-BTC; Thông tư 99/2016/TT-BTC về hoàn thuế GTGT và Nghị đinh 139/2016/NĐ-CP về lệ phí môn bài áp dụng từ năm 2017.
Như vậy, trong thời gian qua, nhà nước đã kịp thời ban hành các chính sách đồng thời cũng có những quy định, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các chính sách này. Điều này đã có những đóng góp lớn đối với việc tháo gỡ những khó khăn liên quan đến các quy định về thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, nhập khẩu trang thiết bị phục vụ du lịch,... tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh du lịch.
Về chính sách đất đai
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 92/2014/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó có giải pháp giảm thuế sử dụng đất và tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư cơ sở lưu trú, khu du lịch sử dụng nhiều diện tích cho không gian cảnh quan.
Nhà nước xây dựng cơ chế ưu đãi, áp dụng các cơ chế đặc thù về đất đai cho một số địa phương, thu hút đầu tư, để hình thành một số khu du lịch trọng điểm quốc gia có sức cạnh tranh quốc tế, tạo động lực cho du lịch Việt Nam hội nhập hiệu quả thành công vào du lịch AEC.
Về chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
Xúc tiến quảng bá du lịch được xác định là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút đầu tư, khách du lịch, góp phần thực hiện thành công Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam. Chính vì vậy, nhiều chính sách hỗ trợ cho xúc tiến du lịch đã được ban hành Luật Du lịch 2017, chính sách miễn visa và visa điện tử.
Công tác quảng bá sản phẩm du lịch của các doanh nghiệp du lịch cũng được quan tâm triển khai trong chương trình xúc tiến du lịch quốc gia. Các hoạt động xúc tiến quảng bá chủ yếu thông qua các hội chợ du lịch, các chiến dịch phát động thị trường, các chuyến khảo sát, Famtrips, presstip; các sự kiện ngày văn hóa Việt Nam tại nước ngoài;... Tuy nhiên kinh phí đầu tư cho xúc tiến quảng bá du lịch từ ngân sách chưa được thỏa đáng, năm 2016 là 2 triệu USD (Thái Lan là 69 triệu USD, Malaysia 105 triệu USD, Singapore 80 triệu USD, Indonesia 200 triệu USD, Philippines 54 triệu USD), nên hiệu ứng tiếp thị mới dừng ở mức độ nhất định, chưa xúc tiến có trọng điểm chiều sâu theo đuổi thị trường mục tiêu, chưa phát triển được thương hiệu du lịch Việt Nam.
Cũng trong giai đoạn này, Tổng cục Du lịch đã chính thức giới thiệu trang website “Xúc tiến du lịch Việt Nam” (www.vietnamtourism.vn) với ba ngôn ngữ: Việt, Anh, Nhật. Bên cạnh đó, “Ứng dụng của marketing điện tử (E-marketing)” là một trong những nhiệm vụ đột phá của ngành Du lịch trong công tác này. Kênh quảng bá du lịch Việt Nam trên Youtube chính thức đi vào hoạt động cũng góp phần tăng cường tuyên truyền, quảng bá thông tin về du lịch Việt Nam trên các phương tiện truyền thông góp phần đáp ứng nhu cầu theo dõi các chương trình, bản tin du lịch của khán giả trong và ngoài nước.
Để tạo điều kiện cho các địa phương và doanh nghiệp du lịch chủ động tham gia các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước, Tổng cục Du lịch đã ban hành kế hoạch triển khai các hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch hàng năm và đề nghị các địa phương, các doanh nghiệp du lịch hưởng ứng tham gia các hoạt động do Tổng cục Du lịch tổ chức, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quảng bá, xúc tiến của ngành Du lịch.
Tuy nhiên, cách thức tổ chức; nội dung; nguồn lực cho xúc tiến quảng bá còn hạn chế, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch của Việt Nam ở nước ngoài mới chỉ tập trung quảng bá hình ảnh, chưa tạo dựng và quảng bá được những sản phẩm đặc thù và thương hiệu du lịch, hiệu quả xúc tiến quảng bá du lịch còn hạn chế.
Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam chỉ mới tiếp cận được với bộ phận nhỏ công chúng quốc tế, ngân sách cho việc quảng bá du lịch trên thị trường quốc tế quá thấp (khoảng 2 triệu USD/năm).
Về chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực được xem là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ- TTg ngày 30/12/2011. Nhận thức được vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển du lịch Việt Nam, đề án “Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011- 2020” đã được thực hiện và được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phê duyệt tại Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/09/2011.
Một trong những kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động đào tạo du lịch ở Việt Nam là việc xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thẩm định và cấp chứng chỉ nghề theo hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng 13 nghề du lịch Việt Nam (VTOS) dưới sự hỗ trợ của Cộng đồng Châu Âu. Đây là kết quả tích cực của hội nhập góp phần nâng cao năng lực hội nhập của du lịch Việt Nam. Đây là cơ sở để nhân lực ngành du lịch được đào tạo với kỹ năng, trình độ chuyên nghiệp được thừa nhận rộng rãi; có thể di chuyển
và tìm được việc làm trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Mặc dù có được sự hỗ trợ của quốc tế, đặc biệt là từ EU tuy nhiên hoạt động đào tạo nhân lực du lịch Việt Nam đạt tiêu chuẩn khu vực, theo Thỏa thuận về nghề du lịch MRA - TP là còn rất hạn chế. Cho đến nay việc xác định một cách đầy đủ và có hệ thống tiêu chuẩn về trình độ đầu ra đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế đối với các bậc đào tạo du lịch ở Việt Nam còn chưa thống nhất để có thể lấy đó làm căn cứ cho việc đưa ra yêu cầu tối thiểu đối với các cơ sở đào tạo du lịch. Đây có thể được xem là yếu tố cơ bản hạn chế năng lực đào tạo du lịch Việt Nam đạt trình độ quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh có sự khác biệt khá lớn về các chương trình đào tạo du lịch ở các cấp, giữa các cơ sở đào tạo du lịch hiện nay ở Việt Nam.
* Về chính sách ứng dụng khoa học công nghệ
Việc nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ trong ngành Du lịch đã và đang được tích cực triển khai rộng rãi trong mọi lĩnh vực hoạt động của ngành và tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo; các doanh nghiệp du lịch.
- Quyết định 4227/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 29/11/2013 về Phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013 - 2020, tầm nhìn 2030
- Quyết định 1671/QĐ-TTg về Phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025, ban hành ngày 30 tháng 11 năm 2018
Ngành Du lịch cũng đã bắt đầu có những bước chuẩn bị hưởng ứng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Công nghệ thông tin, truyền thông được ứng dụng phổ biến như một trong những yếu tố quan trọng, cần thiết cho quản lý phát triển du lịch. Ở tất cả các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Du lịch và hầu hết các công ty du lịch trên cả nước đều sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông. Các phần mềm quản lý dựa trên ICT được triển khai ứng dụng trong hệ thống quản lý thông tin xuất nhập cảnh, hệ thống email nội bộ,... Các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ gồm: Ứng dụng trong điều tra đánh giá tài nguyên du lịch, bảo vệ tài nguyên; môi trường du lịch, ứng dụng trong công tác thống kê, trong công tác xúc tiến quảng bá du lich.
Mặc dù đã có sự quan tâm nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học cộng nghệ trong phát triển du lịch, tuy nhiên các kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển ngày càng cao của du lịch: