Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hoá - 2


này, theo chúng tôi, gần gũi với công việc phê bình, nghiên cứu văn chương.

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

- Phương pháp liên ngành: được sử dụng xuyên suốt luận án, cho phép chúng tôi huy động những nguồn tri thức khoa học xã hội khác nhau, theo đúng tinh thần của nhân học văn hoá, để đọc tác phẩm của Faulkner.

- Phương pháp lịch sử: dùng chủ yếu trong chương đầu nhằm mô tả, giới thuyết tổng quan về lịch sử mối quan hệ liên ngành giữa nhân học và văn chương, về lịch sử nghiên cứu Faulkner. Đồng thời, phương pháp này được dùng nhằm xác định những nét cơ bản về bối cảnh văn hoá, thời đại của tiểu thuyết Faulkner.

- Phương pháp hệ thống: những so sánh, đối chiếu trong luận án được tiến hành trên cơ sở xem xét tiểu thuyết Faulkner trong tiến trình văn học Mĩ cũng như trong văn chương nhân học, để nhận diện những đóng góp và vị trí của nhà văn.

Xuyên suốt luận án, các thao tác chính được sử dụng phối hợp bao gồm: thao tác phân tích - tổng hợp, thao tác so sánh - đối chiếu và thao tác thống kê - phân loại.

5. Đóng góp của luận án

Trong bối cảnh lịch sử lí thuyết nhân học và lịch sử nghiên cứu về Faulkner vốn đã rất dày dặn, bộn bề, đóng góp của luận án là đã lựa chọn những phạm trù công cụ của lí thuyết nhân học văn hoá có tính khả thi và khoa học để ứng dụng vào phân tích, xử lí một hiện tượng cụ thể là tiểu thuyết Faulkner. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu gồm các vấn đề căn tính văn hoá cộng đồng, các phạm trù nhân tính, đặc trưng huyền thoại - nghi lễ đã đem đến một diễn giải riêng về giá trị tiểu thuyết Faulkner. Bằng quá trình làm việc trung thành và cẩn trọng, chúng tôi tin rằng, trong toàn cảnh nghiên cứu mà chúng tôi có khả năng lĩnh hội, những kết quả rút ra có thể đóng góp vào lịch sử nghiên cứu chưa bao giờ ngưng nghỉ về nhà văn được xem là một trong những tên tuổi lớn của văn chương hiện đại này.

6. Cấu trúc của luận án

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài

Chương 2: Sự “mô tả sâu” căn tính miền Nam nước Mĩ Chương 3: Sự diễn giải về các phạm trù của nhân tính

Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hoá - 2

Chương 4: Huyền thoại - nghi lễ như một phẩm tính nhân học trong tiểu thuyết Faulkner


Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI‌


Ở chương này, những nhiệm vụ được đặt ra gồm:

Giới thuyết về nhân học văn hóa trong tư cách một lí thuyết có tính ứng dụng cao trong nghiên cứu văn chương. Những khía cạnh được trình bày gồm: sự giao thoa giữa nhân học và văn chương; sự xuất hiện của nhân học văn hóa trên hành trình đọc văn chương; những ưu thế, đóng góp và đặc thù của cách tiếp cận văn chương từ nhân học văn hóa; điểm qua một số thực hành nghiên cứu văn chương từ nhân học văn hóa tiêu biểu.

Tổng thuật tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Faulkner. Chúng tôi cố gắng tóm lược các xu hướng chính trong lịch sử nghiên cứu đồ sộ về nhà văn, đặt trọng tâm vào hướng đọc tiểu thuyết Faulkner từ nhân học văn hoá. Những công trình đó gợi mở khoảng không rộng rãi để suy tư về tiểu thuyết Faulkner từ nhân học văn hóa.

Xác định quan điểm và phương hướng tiếp cận của luận án. Luận án nỗ lực lí giải, phân tích những căn nền trong bản thân tiểu thuyết Faulkner khiến chúng trở nên thích hợp với các khả năng đọc từ nhân học văn hóa. Từ đó, một khung lí thuyết nhân học văn hóa, cùng các phạm trù và phạm vi, được đề xuất để ứng dụng xuyên suốt quá trình đọc tiểu thuyết Faulkner trong luận án.

1.1. Nhân học văn hóa và nghiên cứu văn chương từ nhân học văn hóa

Ở phần này, luận án đưa ra một giới thuyết ngắn về nhân học và nhân học văn hóa trong mối liên hệ với văn chương. Từ việc điểm lại hành trình nhận thức và xác lập lí thuyết về sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa nhân học và văn chương, luận án đưa ra những diễn giải, trên những nét lớn, về mối quan hệ này ở hai bình diện: một là, định vị nhân học như một lí thuyết được ứng dụng trên hành trình đọc văn chương; hai là, xác định những nét đặc thù trong mối quan hệ này. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận và bỏ qua tính hai chiều trong sự tương tác giữa nhân học và văn chương. Nhưng để đảm bảo đích đến của luận án, chúng tôi đặt trọng tâm ở góc nhìn tiếp cận văn chương từ nhân học văn hóa, từ đó thấy được những cơ sở cũng như các đặc tính, trên bình diện lí thuyết, về sự can dự của nhân học văn hóa vào văn chương.

1.1.1. Giới thuyết về nhân học, nhân học văn hóa

Nhân học văn hóa (Cultural Anthropolgy) là một chuyên ngành chính của khoa học Nhân học (Anthropology). Nhân học nổi lên như một lĩnh vực học thuật chuyên biệt vào giữa thế kỉ XIX, và định hình như một khoa học độc lập, hoàn chỉnh vào nửa cuối thế kỉ này. Theo nghĩa từ nguyên, anthropology có nguồn gốc từ


tiếng Hy Lạp cổ: anthropos, nghĩa là “con người”, ghép với logos, nghĩa là “tư duy” hoặc “khoa học”. Nhân học, vì thế, có thể nói một cách ngắn gọn là khoa học nghiên cứu về con người. Đây cũng là cốt lòi xuyên suốt các định nghĩa về nhân học. Theo Claude Lévi-Strauss, “Nhân học lấy con người làm mục đích nghiên cứu của nó, nhưng không giống như các khoa học khác về con người, nó cố gắng hiểu được đối tượng của nó qua các biểu hiện đa dạng nhất” [1,10]. Conrad Phillip Kottak diễn giải: “Nhân học khám phá tính đa dạng của con người trong thời gian và không gian; nghiên cứu tổng hợp sự hiện hữu của con người, từ quá khứ, hiện tại tới tương lai; cả phần sinh học, xã hội, ngôn ngữ và văn hóa của nó” [2,4].

Tuy vậy, để đưa ra một khái niệm thuyết phục về nhân học lại không hề dễ dàng. Thực tế, thuật ngữ nhân học thuộc vào dạng những thuật ngữ khoa học khó diễn giải, định nghĩa nhất hiện nay. Khó khăn trong việc định nghĩa nhân học trước hết đến từ đặc thù linh hoạt của nó trong việc dung chứa, giao thoa với một loạt các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật khác, và bởi vậy, việc định nghĩa nó luôn chịu sự bồi đắp, cộng hưởng từ những dịch chuyển trong lòng các lĩnh vực mà nó liên quan. Bản thân Boas, trong những phát biểu sớm của mình nhằm xác lập hình hài cho khoa học nhân học, trên tờ Science năm 1899, cũng đã cảnh báo: tuy rằng có thể nói một cách lí thuyết rằng nhân học là khoa học về con người, vẫn cần xác định rò những lĩnh vực cụ thể nào mà nhân học có thể đóng góp vào các khoảng trống trong khoa học, mà theo Boas lúc bấy giờ, bao gồm ba yếu tố chính: “thể chất, ngôn ngữ và phong tục, tập quán” [3,94]. Nói vậy để thấy rằng, tính co giãn của nhân học mang lại cho nó khả năng ứng dụng liên ngành với các lĩnh vực khác, trong đó có văn chương. Nhưng nhìn ở chiều ngược lại, không phải hễ lĩnh vực nào liên quan tới con người thì đều trở nên thiết thân như nhất với nhân học; cần xác định rò các lĩnh vực gần gũi và những phạm vi, đặc thù trong mối liên hệ của nó với nhân học.

Nhân học nói chung, nhân học văn hóa nói riêng ra đời dựa trên những cội nguồn triết học và khoa học phôi thai từ rất sớm của nhân loại. Tuy vậy, chỉ tới giữa thế kỉ XIX, nhờ sự thôi thúc của thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản ở châu Âu, nhân học hiện đại mới bắt đầu được khai sinh. Thế kỉ XIX nhanh chóng chứng kiến sự hồi sinh của mối ưu tư về nguồn gốc con người, tính đa dạng của các chủng tộc người, so sánh những đặc tính của giải phẫu người, về xã hội nguyên thủy, lịch sử phát triển của kinh tế và công nghiệp loài người… Do đó, khoa học nhân học ra đời như kết quả tự nhiên của những nghiên cứu đương thời về các đặc điểm sinh học và quá trình tiến hóa của nhân loại. Nói cách khác, nhân học, trong những bước đi ban đầu, mang hình hài của cái mà sau này được gọi là Nhân học sinh học (Biological


Anthropology) hay Nhân học thể chất (Physical Anthropology).

Tuy nhiên, không lâu sau đó, các nhà nhân học nhận ra nhân học bấy giờ, đặt trọng tâm vào con người tự nhiên, đã chứng tỏ tính phiến diện trước nhu cầu phân tích tính đa dạng của con người xét ở khía cạnh văn hóa, xã hội. Nhân học văn hóa (Cultural Anthropology) xuất hiện như sự bù đắp những thiếu khuyết của Nhân học sinh học, và cùng với Nhân học sinh học, trở thành hai lĩnh vực quan trọng, cơ bản nhất của Nhân học. Theo Conrad Phillip Kottak, “nhân học văn hóa nghiên cứu xã hội và văn hóa loài người, là chuyên ngành mô tả, phân tích, diễn giải và giải thích những điểm tương đồng và khác biệt về xã hội và văn hóa” [4,12]. Sự xuất hiện của nhân học văn hóa làm hoàn thiện khoa học nhân học, định hình đặc thù của nhân học trong tương quan với những ngành khoa học về con người khác: nhân học nghiên cứu con người trong tính toàn diện bằng cái nhìn so sánh, đối chiếu.

Thuật ngữ “nhân học văn hóa” là thuật ngữ chỉ một chuyên ngành của nhân học, nhưng cách phân chia các chuyên ngành nhân học và hệ thuật ngữ nhân học có sự khác biệt giữa các quốc gia, khu vực [5]. Về phân ngành nhân học, ở Bắc Mĩ, nhân học văn hóa là một trong bốn chuyên ngành hẹp của nhân học, cùng với nhân học sinh học (biological anthropology), khảo cổ học (archaeology), ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics). Trong khi đó, ở châu Âu, nhân học văn hóa, theo nghĩa hẹp, tương đương với chuyên ngành hẹp “nhân học văn hóa” theo cách tiếp cận bốn chuyên ngành ở Bắc Mĩ nói trên; nhưng theo nghĩa rộng, nhân học văn hóa còn bao gồm thêm cả hai lĩnh vực khảo cổ học (archaeology) và ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) [6,61]. Trong luận án, thuật ngữ “nhân học văn hóa” được dùng với cách hiểu là một chuyên ngành theo cách tiếp cận bốn chuyên ngành nhân học của khu vực Bắc Mĩ.

Về hệ thuật ngữ, lĩnh vực này có tên gọi khác nhau tùy vào quan niệm của các trường phái. Mĩ sử dụng thuật ngữ “nhân học văn hóa” với sự quan tâm nhiều hơn đến khái niệm văn hóa trong khi Anh đặt tên cho chuyên ngành này là “nhân học xã hội” do sự nhấn mạnh tới cấu trúc xã hội [6,61]. Đòi hỏi phân định rạch ròi giữa “nhân học văn hóa” và “nhân học xã hội” xuất hiện nghiêm túc từ sau những năm 1930 và trở thành đỉnh điểm tranh cãi, nhất là giữa các nhà nhân học Anh và Mĩ, vào những năm đầu thập niên 50 của thế kỉ XX. Cuộc luận chiến giữa George Peter Murdock và Raymond Firth tại tờ Nhà nhân học Mĩ năm 1951 [7,IX], được tiếp sức bởi Radcliffe-Brown năm 1952, đã khơi mào cho loạt tranh luận rộng rãi về việc liệu có nên chia tách hay hợp nhất hai khái niệm “nhân học văn hóa” và “nhân học xã hội”. Hầu hết những người trong cuộc đều thống nhất rằng nếu như nhân học văn


hóa tập trung nghiên cứu sự khác biệt của các dạng thức văn hóa và đưa tới cái nhìn toàn cầu về những đức tin, phong tục và thể chế của một dân tộc thì nhân học xã hội cố gắng phân định những mối quan hệ xã hội như đời sống, luật lệ, chính trị, kinh tế…, chú ý nhiều hơn tới cơ sở tổ chức của đời sống xã hội. Quyết định lựa chọn gọi tên nền nhân học không chỉ dừng lại ở việc xác định bản sắc cho nền nhân học mỗi dân tộc. Việc tranh cãi này, theo kì vọng của những người đương thời, là công việc có ý nghĩa triết học hơn: nó tìm kiếm rốt ráo bản chất, cội nguồn của nhân học. Rút cục lĩnh vực nhân học này nên là câu chuyện về xã hội, hay nó trước hết cần là câu chuyện văn hóa? Nếu như lĩnh vực này thực chất là câu chuyện văn hóa, liệu cái gọi là “nhân học xã hội” có nên tồn tại khi nó chỉ còn lại chức năng của xã hội học?

Sự truy nguồn này dẫn tới bàn thảo về định nghĩa và mối quan hệ giữa hai khái niệm “văn hóa” và “xã hội”. Đối với Firth và những người ủng hộ, “khái niệm “xã hội” chỉ ra các thành tố của nhân sinh, con người và mối quan hệ giữa chúng; khái niệm “văn hóa” chỉ những tài nguyên được tích lũy mà con người đạt được, chuyển giao và điều chỉnh thông qua học hỏi xã hội” [7,x-xi]. Bởi vậy, nhân học cần phải là xã hội trước khi nó là văn hóa, bởi vì cuộc sống xã hội là điều kiện cho việc học hỏi, chuyển giao các tài nguyên văn hóa. Trong khi đó, Murdock lại nhìn nhận tính xã hội của con người, cùng với trí tuệ, tập quán và ngôn ngữ, chỉ là một công cụ chuyên chở văn hóa. Nói cách khác, “trong khi đối với Firth, văn hóa chỉ là một khía cạnh của đời sống xã hội, thì đối với Murdock, có một trật tự trong đó văn hóa là thứ ưu việt hơn so với đời sống sinh học và xã hội” [7,xi]. Việc phân biệt hai khái niệm “văn hóa” và “xã hội” này đưa tới việc một số nhà nhân học, tiêu biểu như Murdock, Radcliffe- Brown, kiên định với quan điểm cần phân định rạch ròi giữa nhân học văn hóa và nhân học xã hội. Về đại thể, ở Anh và Pháp, các nhà ủng hộ cho nhân học xã hội vẫn thắng thế, trong khi Mĩ lại lựa chọn truyền thống nhân học văn hóa.

Bên cạnh đó, sự phân biệt có thể không nằm ở hai tính ngữ “văn hóa” hay “xã hội” mà từ góc độ phương pháp luận. Lévi-Strauss là một trong những người làm dịu đi cuộc luận chiến này. Ông cho rằng nhân học văn hóa khởi đầu từ việc nghiên cứu các kĩ thuật vật chất (material techniques) rồi sau đó chuyển sang nghiên cứu các mối quan hệ xã hội. Nhân học xã hội thì lại đi theo hướng ngược lại: nó xuất phát từ các mối liên hệ xã hội để soi rọi tới các công cụ vật chất mà đời sống xã hội in dấu. “Đây chỉ là sự khác biệt về góc nhìn, và bởi vậy nên không có sự khác biệt lớn nào giữa nhân học xã hội và nhân học văn hóa” [7,xvi]. Nói như vậy, nếu như nhân học xã hội coi trọng hướng tiếp cận thực chứng luận (xuất phát từ các giá trị chung để diễn giải hành vi, trải nghiệm của cá nhân trong xã hội) thì nhân học văn


hóa chủ trương hướng tiếp cận phản thực chứng luận (xuất phát từ hành vi cá nhân để tìm hiểu nền văn hóa, trật tự xã hội mang tính quy ước của các chủ thể).

Từ nhận thức về hai tiêu chí phân biệt trên (dựa trên hai khái niệm “văn hóa”, “xã hội” và hai xu hướng phương pháp luận đối nghịch), chúng tôi lựa chọn quan điểm không phân tách gắt gao hai thuật ngữ “nhân học văn hóa” và “nhân học xã hội”. Thuật ngữ “nhân học văn hóa” được sử dụng trong luận án tương đương với thuật ngữ “nhân học xã hội” với tư cách là một trong bốn chuyên ngành của nhân học. Sự phân biệt giữa nhân học văn hóa và nhân học xã hội không nhằm đưa tới việc coi chúng như hai nhánh đối lập, mà như đã nói ở trên, mang ý nghĩa phương pháp nhiều hơn. Việc lựa chọn nhân học văn hóa hay nhân học xã hội là nhằm mang tới một bộ khung phù hợp để các nhà nhân học thu thập, sắp xếp, xử lí các tư liệu dân tộc học. Trong luận án, văn chương, cụ thể hơn là tiểu thuyết, là đối tượng được nghiên cứu dưới lăng kính nhân học. Văn chương có lẽ chủ yếu không xem việc phân tích, mổ xẻ cơ cấu tổ chức đời sống xã hội như cuộc sống gia đình, kinh tế, luật pháp, chính trị, tôn giáo như một đích đến mà nó trăn trở nhiều hơn tới những trái nghiệm cá nhân trước đời sống xã hội đó, nhằm thâu nhận một cái nhìn trọn vẹn về tri thức, tập quán và thiết chế của một dân tộc. Đặc biệt, tiểu thuyết vốn là câu chuyện đời tư, nó đòi hỏi một hành trình đọc từ những trải nghiệm riêng tây về các hành vi cá nhân để mang tới những cái nhìn về những giá trị quy ước của văn hóa, xã hội. Bởi vậy, thuật ngữ “nhân học văn hóa” được chọn trong luận án để mang đến một bộ khung gần gũi hơn với bối cảnh nhân học - văn chương.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân học và văn chương

Nhân học nói chung, nhân học văn hóa nói riêng, với quan điểm nghiên cứu con người trong tính toàn diện của nó, có tham vọng tích hợp thành tựu nghiên cứu của các lĩnh vực khác để kết hợp với dữ kiện của riêng mình. Văn chương không phải là lĩnh vực gần gũi số một với nhân học văn hóa và cũng không phải ngay từ đầu các nhà nhân học đã lưu tâm tới mối quan hệ giữa nhân học và văn chương. Thế nhưng một khi được ý thức, nó lại tạo nên những thay đổi mang tính “bước ngoặt” trong cả nhân học và văn chương. Phần sau đây là nỗ lực phác thảo những bước đi quan trọng trong hành trình của xu hướng nghiên cứu liên ngành nhân học - văn chương, chủ yếu ở khu vực châu Âu và Hoa Kì.

1.1.2.1. Từ trường phái “nghi lễ” trong nhân học đến phê bình huyền thoại trong văn chương

Ban đầu, sự chú ý của giới học thuật về mối quan hệ giữa nhân học và văn chương được khơi lên từ chủ yếu từ những thực hành nhân học mang phẩm tính văn


chương và những nghiên cứu văn chương từ tri thức nhân học vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Điểm gặp gỡ đầu tiên, kết nối hai lĩnh vực này với nhau lúc bấy giờ chính là mối bận tâm về huyền thoại (myth) và sự ra đời của phê bình huyền thoại (myth criticism) hiện đại.

Đầu thế kỉ XX, thành tựu nhân học đã xâm nhập vào lãnh địa phê bình văn chương, góp phần tạo nên một dịch chuyển đáng kể trong lòng nó: sự ra đời của phê bình huyền thoại. Người tiên phong trong cuộc khai phá này chính là nhà nhân loại học vĩ đại James George Frazer, linh hồn của trường phái “nghi lễ” (ritual school). Kho bách khoa toàn thư về văn hóa nguyên thủy, Cành vàng, trong dáng vẻ uy nghi và mê hoặc của nó, đã truyền cảm hứng cho những kẻ kế nhiệm ứng dụng lí thuyết của ông để phê bình văn chương. Trường phái Cambridge, gồm những nhà phê bình nghi lễ theo tinh thần Frazer, đã tiên phong tạo diện mạo cho phê bình huyền thoại hiện đại. Những công trình trong hai thập niên đầu của thế kỉ XX như Diễn đài trung đại (E. Chambers), Nghệ thuật cổ và nghi lễ (J. Harrison), Nguồn gốc hài kịch Athens (F. Cornford), Từ nghi lễ đến tiểu thuyết (J. Weston), Truyền thống cổ điển trong thi ca (H. Murray) đều là những thực hành phê bình mà ở đó, mọi bình diện căn bản trong tác phẩm đều được miệt mài soi rọi dưới lăng kính của phương pháp phê bình nghi lễ [theo 8,366].

Tới thập niên tiếp theo, T.S. Eliot khẳng định và dự báo sự hiện diện của phương pháp huyền thoại, không chỉ ở hoạt động phê bình, mà còn ở ngay cả quá trình sáng tạo văn chương. Trong lời chú thích về bản trường ca Đất hoang, Eliot thừa nhận đã vận dụng những tri thức về huyền thoại, nghi lễ từ hai công trình Cành vàng của Frazer và Từ nghi lễ tới tiểu thuyết của Jessie L. Weston [9,2]. Khi đọc Ulysses của James Joyce, ông viết: “Ngài Joyce đang theo đuổi một phương pháp mà đời sau sẽ còn kế tục ông. (…) Đó là một phương pháp mà tương lai của nó đầy điềm lành. (…) Thay vì phương pháp tự sự (narrative method), giờ đây chúng ta dùng phương pháp huyền thoại (mythical method)” [9,2]. Trong trường hợp này, Eliot là nhà tiên tri tài ba. Quả vậy, thế kỉ XX chứng kiến sức tái sinh đầy uy lực của huyền thoại. Ở bình diện sáng tác, những điển phạm văn chương thế giới như D. H. Lawrence, J. Joyce, T. Mann, F. Kafka, Faulkner… đều là những người viết nên huyền thoại văn chương hiện đại. Ở bình diện nghiên cứu, phê bình huyền thoại dần trở thành “một khuynh hướng có thanh thế trong nghiên cứu văn học Anh, Mĩ thế kỉ XX” [8,357].

Frazer không phải là nhà nhân loại học duy nhất có công trong sự hình thành và phát triển của phê bình huyền thoại. Những công trình của Bronislaw Malinowski, Lévi-Strauss cũng được xem như ngọn nguồn của các “nhánh” xuất


hiện muộn hơn như trường phái chức năng hay trường phái cấu trúc trong phê bình huyền thoại. Nhưng sự xuất hiện và ảnh hưởng của Frazer lúc bấy giờ có ý nghĩa đánh dấu mốc cho những thực hành liên ngành có ý thức đầu tiên giữa nhân học và sáng tác/ phê bình văn học. Nó là chứng nhân cho điểm hẹn đầu giữa nhân học và văn chương - điểm hẹn “huyền thoại”. Những thực hành như vậy chính là nền tảng, là cú hích cho những bàn thảo lí thuyết mang tính tổng quan sau này về nhân học - văn chương.

Ở chiều ngược lại, có thể thấy mặc dù câu hỏi văn chương đem lại thay đổi gì cho nhân học chưa được đặt ra, nhưng bản thân thực hành nhân học của Frazer đã dự báo một lối viết nhân học mang phẩm tính văn chương. Bản thân những người kế nhiệm Frazer bị quyến rũ không chỉ bởi kho tri thức mênh mông đến choáng ngợp trong Cành vàng, mà còn bởi lối diễn giải những tri thức nhân học đẹp như tiểu thuyết. Sau này, Clifford Geertz, Lévi-Strauss… là những người kế tục xuất sắc của ông nếu xét ở bình diện này, khi những trang viết của họ không khỏi làm ngạc nhiên giới nhân học vì nó mạnh dạn đem lại cho các thực hành khoa học một phẩm tính thi ca. Nhân học mang tính văn chương, hay sự tồn tại của thể loại văn chương nhân học, là những vấn đề lí thuyết sẽ được đặt ra ở những giai đoạn sau.

Từ giữa thế kỉ XX, vấn đề lí thuyết về mối quan hệ giữa văn chương - nhân học được bàn thảo một cách nghiêm túc. Theo nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được, công trình quan trọng có tính chất đặt vấn đề là tiểu luận Nhân học văn hóa và phê bình văn chương đương đại (1951) của Haskell M. Block. Ý nghĩa của công trình này nằm ở chỗ nó đã nhìn thấy tính xu hướng trong những diễn biến nhân học và văn chương đầu thế kỉ XX, nhận diện một hướng tiếp cận phê bình mới - phê bình nhân học [10,54], đặt nền móng cho những thảo luận sau này: “Nhân học văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong phê bình văn chương đương đại, không chỉ bởi cái cách mà nó tác động tới những giá trị phê bình, mà ở chỗ nhân học mang tới chỉ dấu cho những mối ưu tư của những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời đại” [10,46].

Sự can dự của nhân học vào văn chương đã được diễn giải ở hai khía cạnh chính: căn nền, cơ sở của việc tiếp cận văn chương từ nhân học và cách thức đọc văn chương từ nhân học. Ở khía cạnh đầu tiên, cơ sở cho sự giao thoa giữa nhân học và văn chương chính là xu hướng liên ngành của phê bình văn học đương đại. “Nhà phê bình văn chương không nên là một kẻ giam mình trong phòng tối với nỗi rối bời hoang hoải, mãi thì thầm với riêng mình. Anh ta sao tránh khỏi bị dịch đẩy bởi những ý tưởng đang khuấy động, xô lấn xung quanh mình, bởi nỗi thôi thúc được trải nghiệm diễn giải và đánh giá cuộc sống nhân sinh” [10,46]. Sứ mệnh của anh ta,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022