sở hệ thống các chỉ tiêu định lượng và định tính liên quan đến khách hàng vay.
Để thực hiện quản trị rủi ro tín dụng, Uỷ ban Basel II cho phép các ngân hàng lựa chọn giữa “phương pháp dựa trên đánh giá tiêu chuẩn” và “phương pháp dựa trên đánh giá nội bộ”. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đều đang xây dựng phương pháp đánh giá nội bộ, đây chính là nòng cốt của quản trị rủi ro tín dụng. Phương pháp đánh giá nội bộ hay còn gọi là xếp loại nội bộ, về cơ bản có 2 công cụ chính là xếp loại tín dụng(credit rating) đối với khách hàng là doanh nghiệp và chấm điểm tín dụng (credit scoring) đối với khách hàng cá nhân. Về bản chất, cả 2 công cụ đều làm nhiệm vụ định hạng (hay xếp loại) tín dụng đối với khách hàng vay. Điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ chấm điểm tín dụng chỉ áp dụng trong hệ thống ngân hàng để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và cá nhân. Chấm điểm tín dụng chủ yếu dựa vào thông tin phi tài chính và tình hình hoạt động của người vay, bởi những khó khăn trong khâu thu thập thông tin tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và cá nhân. Các thông tin cần thiết trong đơn xin vay cùng với các thông tin khác về khách hàng do ngân hàng thu thập sẽ được nhập vào máy tính, thông qua hệ thống thông tin tín dụng để phân tích, xử lý bằng một phần mềm cho điểm. Kết quả sẽ đưa ra một con số- điểm tín dụng- chỉ mức độ rủi ro tín dụng của người vay. Hiệu quả sử dụng kỹ thuật này rất cao, giúp ích đắc lực cho việc quản trị rủi ro đối với khách hàng vay là doanh nghiệp nhỏ và cá nhân. Do các doanh nghiệp nhỏ và cá nhân thường không có báo cáo tài chính hoặc báo cáo không đầy đủ, thiếu tài sản thế chấp, thông tin thiếu nên họ thường khó khăn trong việc tiếp cận với ngân hàng. Công cụ này giúp cho việc đánh giá loại khách hàng này dễ dàng, nhanh chóng hơn và nếu độ rủi ro trong giới hạn cho phép thì họ thuận lợi nhiều trong việc vay vốn ngân hàng.
Trong khi đó, xếp loại tín dụng được áp dụng đối với doanh nghiệp lớn đã có lịch sử lâu đời hàng trăm năm, có cơ sở lý luận vững chắc và có số liệu thống kê tích lũy nhiều thời kỳ phục vụ cho kỹ thuật xếp loại. Do doanh nghiệp lớn thường có đầy đủ các báo cáo tài chính nên việc xếp loại tín dụng chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu tài chính. Xếp loại tín dụng được áp dụng rộng rãi hơn, không những trong hoạt động ngân hàng, kinh doanh chứng khoán mà còn trong kinh doanh thương mại, đầu tư, giúp các doanh nghiệp lựa chọn bạn hàng, chọn đối tác đầu tư, liên doanh...
Theo kinh nghiệm của ngân hàng các nước trong khu vực, để có một hệ thống xếp loại rủi ro tín dụng hiệu quả, sau bước xếp loại người vay, cần phải tiến hành xếp loại rủi ro các phương tiện tín dụng của người vay (chẳng hạn như khoản vay). Việc xếp loại người vay sẽ cho biết khả năng vỡ nợ của người vay hoặc một nhóm người vay trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình trong điều kiện kinh doanh bình thường. Còn việc xếp loại phương tiện tín dụng cho thấy những tổn thất ước tính của chính phương tiện tín dụng đó (khoản vay đó). Nếu kết hợp cả hai tầng xếp loại này thì vấn đề quản trị rủi ro tín dụng có thể giải quyết tương đối triệt để.
Sau khi xếp hạng khách hàng, cần có chính sách đối xử với khách hàng một cách cụ thể: chính sách về lãi suất, chính sách về tín dụng, về tài sản bảo đảm… phù hợp với từng hạng khách hàng. Ngoài ra, theo kinh nghiệm của ngân hàng các nước trong khu vực, để có một hệ thống xếp loại rủi ro tín dụng hiệu quả, sau bước xếp loại người vay, cần phải tiến hành xếp loại rủi ro các phương tiện tín dụng của người vay (chẳng hạn như khoản vay). Việc xếp loại người vay sẽ cho biết khả năng vỡ nợ của người vay hoặc một nhóm người vay trong việc thực hiện nghĩa vụ trả trả nợ của mình trong điều kiện kinh doanh bình thường. Còn việc xếp loại phương tiện tín dụng cho thấy những tổn thất ước tính của chính phương tiện tín dụng đó (khoản vay đó).
Nếu kết hợp cả hai tầng xếp loại này thì vấn đề quản trị rủi ro tín dụng có thể giải quyết tương đối triệt để.
Thực hiện Điều 7 Quyết định 493, dự kiến 2012, NHNo&PTNT Việt Nam sẽ chính thức áp dụng phương pháp phân loại nợ theo phương pháp định tính. Căn cứ vào kết quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, các khoản nợ của khách hàng sẽ được phân loại vào các nhóm tương ứng sau:
Xếp hạng khách hàng theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ AAA
AA A BBB
Phân loại nhóm nợ Nhóm nợ
BB B | ||
CCC | Nợ dưới tiêu chuẩn | Nhóm 3 |
CC | ||
C | Nợ nghi ngờ | Nhóm 4 |
D | Nợ có khả năng mất vốn | Nhóm 5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Với Đội Ngũ Cán Bộ Quản Trị Điều Hành:
- Áp Dụng Hình Thức Bảo Đảm Tín Dụng Thích Hợp:
- Thay Đổi Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy, Chức Năng Nhiệm Vụ Đáp Ứng Yêu Cầu Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng:
- Các Báo Cáo Về Quản Trị Rrtd [36]
- Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 30
- Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 31
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Nợ đủ tiêu chuẩn Nhóm 1 Nợ cần chú ý Nhóm 2
3.4.10. Hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng trung tâm thông tin tín dụng khách hàng:
Bảo đảm hệ thống thông tin khách hàng (CIC) phải được cập nhật nhanh nhất, đầy đủ nhất, chính xác nhất để phục vụ cho việc thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng. Có như vậy, mới bảo đảm hạn chế được rủi ro tín dụng cho toàn bộ hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
- Cần áp dụng phần mềm hỗ trợ để ngăn chặn được tình trạng khách hàng đang có nợ quá hạn tại chi nhánh này nhưng lại đi vay ở chi nhánh khác trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp. Muốn vậy, trung tâm thông tin phải đưa ra chính xác và đầy đủ những khách hàng đang có nợ quá hạn tại hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác.
- Cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả với Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN, của các NHTM khác, cũng như khai thác
thông tin phòng ngừa rủi ro qua các nguồn khác , kể cả ở nước ngoài để cung cấp cho các chi nhánh trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
3.4.11. Thiết lập quỹ dự phòng cho những khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn và tích cực xử lý nợ xấu, nợ quá hạn:
Trên thực tế, việc thiết lập quỹ dự phòng đã được thực hiện tại NHNo&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, ngân hàng chưa có những hướng dẫn cụ thể để các chi nhánh thực hiện điều này có thể dẫn đến việc ngân hàng lập dự phòng không chính xác và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, giải pháp trên đòi hỏi ngân hàng phải hoàn thiện quy định hướng dẫn về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro sao cho phù hợp với quy định của NHNN và thực tế tình trạng nợ xấu tại ngân hàng hiện nay.
Ngoài việc đưa ra những phương pháp để phòng ngừa rủi ro, trong công tác quản trị rủi ro tín dụng còn phải kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Một biểu hiện về lượng trong rủi ro tín dụng chính là nợ quá hạn, nợ xấu ngày càng cao. Bởi vậy, Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Việt Nam cần thành lập và duy trì hoạt động của Bộ phận xử lý nợ quá hạn (có thể gọi là Ban Xử lý nợ) để có thể ban hành những văn bản hướng dẫn các chi nhánh phân tích và tìm biện pháp để xử lý nợ xấu, nợ quá hạn nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của các Chi nhánh. Tuỳ theo từng nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng mà có những biện pháp thích hợp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng cũng như tạo điều kiện để ngân hàng thu hồi được vốn vay. Hàng tháng, cán bộ thuộc Ban Xử lý nợ quá hạn tiến hành.
3.4.12. Ứng dụng đầy đủ và đồng bộ công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động tín dụng
Tín dụng hiện đại sử dụng thông tin đa dạng, trực tuyến và tập trung. Với hệ thống công nghệ xử lý tập trung sẽ giúp các cấp lãnh đạo và Trung tâm Điều hành kiểm soát được chất lượng và hiệu quả trong đầu tư tín dụng cũng như chấp hành các định hướng và mục tiêu tín dụng được đề ra cho từng
thời kỳ của từng chi nhánh và toàn hệ thống; ngoài ra, cũng giúp đội ngũ cán bộ tín dụng có đủ thông tin để tham mưu trong quyết định cho vay như thông tin về khách hàng, thông tin về rủi ro và cạnh tranh ngành, rủi ro về thị trường…
Muốn kiểm soát được các luồng thông tin của khách hàng vay vốn tại NHNo một cách kịp thời, đầy đủ, rất cần thiết phải tiếp tục triển khai chương trình IPCAS tới tất cả các chi nhánh chưa sử dụng chương trình này.
Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến việc cung cấp đầy đủ trang thiết bị, máy vi tính cho những chi nhánh ở địa bàn miền núi, các vùng xa xôi hẻo lánh, những nơi kém phát triển… kết hợp với việc cử cán bộ tới những chi nhánh này để triển khai, đào tạo giúp chi nhánh sử dụng máy móc vào phục vụ hoạt động của mình.
3.4.13. Tập trung xử lý nợ tồn đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn:
Các món nợ của khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh, cần phải có các giải pháp giảm những khoản nợ tồn đọng, nợ quá hạn. Đó là thường xuyên định kỳ tiến hành phân tích đánh giá những khoản nợ tồn đọng, quá hạn, tìm rõ nguyên nhân để có giải pháp thu hồi nợ cho phù hợp.
- Thực hiện các biện pháp thu hồi nợ quá hạn. Đối với các khoản nợ quá hạn bình thường, cán bộ tăng cường đôn đốc, thu hồi nợ kết hợp với việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính, tình hình tài sản đảm bảo. Đồng thời cần có biện pháp thích hợp để giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn về tài chính, trả nợ ngân hàng, tạm hoãn thu lãi định kỳ các khoản nợ đã chuyển quá hạn do chậm trả một phần gốc hoặc lãi theo điều 22 Quy định 1627. Còn các khoản nợ khó đòi trên 6 tháng có nguy cơ rủi ro cần thực hiện việc đôn đốc thu hồi nợ qua nhiều bước, kiểm tra quy trách nhiệm.
- Thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp đối với từng khoản vay.
Các biện pháp xử lý nợ theo quy định của ngân hàng cấp trên bao gồm:
+ Điều chỉnh kỳ hạn nợ : trường hợp khách hàng có nợ quá hạn hoặc không trả được nợ đến hạn do các khó khăn khách quan, nếu xác định lại kỳ hạn nợ, khách hàng có thể ổn định được sản xuất, trả được nợ thì ngân hàng có thể xem xét điều chỉnh lại kỳ hạn nợ.
+ Miễn giảm tiền vay đối với khách hàng bị tổn thất tài sản hình thành từ vốn vay do các nguyên nhân khách quan nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng có điều kiện lập lại quan hệ tín dụng bình thường.
+ Các khách hàng có nợ quá hạn do nguyên nhân bất khả kháng có khả năng trả nợ và cần vốn để khôi phục sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể xem xét tạm khoanh nợ cũ.
+ Các khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng tuỳ vào mức độ vi phạm ngân hàng có thể tạm ngừng cho vay, chấm dứt cho vay hoặc khởi kiện trước pháp luật.
- Khai thác các tài sản đảm bảo nợ vay. Trước hết phải rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục đảm bảo tiền vay của các khoản nợ quá hạn, từ đó có biện pháp bổ sung, hoàn chỉnh, đảm bảo hợp lệ, hợp pháp, đầy đủ để tạo điều kiện cho việc xử lý. Tiến hành các bước và biện pháp xử lý tài sản phù hợp với thực trạng từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở các quy định tại Nghị định 178 và các văn bản khác có liên quan.
- Phối hợp với các ngành có liên quan, với cấp uỷ, với chính quyền địa phương để xử lý nợ khó đòi, nợ quá hạn.
3.4.14. Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh:
Tuy các tên các công cụ phái sinh còn chưa phát triển ở Việt Nam nhưng trong những năm gần đây nhiều ngân hàng trên thế giới đã áp dụng công cụ tài chính mới này để hạn chế rủi ro tín dụng, đồng thời tạo thêm thu nhập cho ngân hàng từ lệ phí thu được. Các công cụ tín dụng phái sinh bao gồm:
3.4.14.1. Chứng khoán hoá các khoản cho vay:
Chứng khoán hoá tài sản đòi hỏi ngân hàng phải dành riêng một nhóm các tài sản đảm bảo cho các khoản vay mua nhà thế chấp hoặc cho vay tiêu dùng và bán ra thị trường những chứng khoán được phát hành trên những tài sản đó. Khi tài sản được thanh toán, ngân hàng sẽ chuyển khoản thanh toán này cho người sở hữu những chứng khoán được mua bán tự do đó. Còn ngân hàng sẽ nhận lại phần vốn đã bỏ ra để có tài sản đó và sử dụng nguồn vốn này chi trả cho các chi phí hoạt động hay tạo ra những sản phẩm mới. Chứng khoán hoá các khoản vay giúp: cho phép thực hiện những yêu cầu đầu tư hay chi tiêu mới của ngân hàng, đảm bảo tính thanh khoản cho các khoản vay đóng băng; đồng thời ngân hàng có thể thu thêm khoản lệ phí qua việc quản lý những khoản vay được chứng khoán hoá.
Trong khi quản lý các khoản vay được chứng khoán hoá, ngân hàng có thể đưa những khoản cho vay này ra khỏi bảng cân đối kế toán, giúp loại trừ được rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
3.4.14.2 Bán các khoản cho vay:
Đối tác mua các khoản cho vay chủ yếu là ngân hàng, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, các công ty phi tài chính, các quỹ tương hỗ.
Bán các khoản cho vay tức là chuyển nợ của người mua hàng từ người bán hay cung ứng dịch vụ sang công ty mua nợ. Công ty mua nợ sẽ đảm bảo việc thu nợ, họ có thể trả trước thời hạn toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng một khoản hoa hồng và phí thu nợ. Mọi rủi ro xảy ra đều do người tài trợ gánh chịu.
Thống đốc NHNN ban hành quy chế mua bán nợ đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giải quyết vấn đề nợ tồn đọng phù hợp với cơ chế thị trường.
Hoạt động mua bán nợ không chỉ là một biện pháp xử lý nợ mà còn là một hình thức tín dụng mới nhằm đa dạng hoá các hoạt động tín dụng, tăng
cường khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận. Mặt khác, các chủ thể tiến hành mua bán nợ trên thị trường hoạt động chuyên nghiệp, có nhiều lợi thế về thông tin, quy mô, không chịu áp lực từ mối quan hệ với khách hàng như ngân hàng nên công tác xử lý nợ xấu sẽ hiệu quả hơn.
Để thực hiện tốt biện pháp này, Agribank phải nhận thức rõ ràng vai trò tầm quan trọng, ích lợi của việc mua bán nợ, cụ thể hoá các quy định của pháp luật nhằm đưa ra quyết định đúng đắn để tiến hành việc mua bán nợ đúng pháp luật và hiệu quả.
Thành lập tổ chuyên trách về mua bán nợ để phân tích tình hình các khoản nợ và thị trường mua bán nợ giúp đưa ra các quyết định hợp lý.
3.4.14.3. Các công cụ tín dụng phái sinh khác:
- Hợp đồng quyền tín dụng: Đây là công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng. Khi chất lượng tín dụng của ngân hàng bị giảm sút hợp đồng quyền tín dụng sẽ giúp ngân hàng bù đắp các chi phí vay vốn. Nếu các khoản vay của khách hàng bị giảm giá hay không thể thanh toán, hợp đồng quyền tín dụng sẽ đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
- Nghiên cứu và áp dụng các nghiệp vụ hoán đổi hợp đồng tín dụng với các ngân hàng thương mại khác, bước đầu có thể trong phạm vi liên minh ngân hàng trong nước, sau đó phát triển rộng ra với tất cả các ngân hàng trong nước và nước ngoài để tăng tính thanh khoản của dư nợ tín dụng đồng thời có nguồn tài chính để chủ động ứng phó với những tổn thất khi nợ xấu phát sinh.
3.4.15. Xây dựng hệ thống báo cáo rủi ro tín dụng:
Cần xây dựng một hệ thống báo cáo theo chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tốt cho công tác quản trị rủi ro tín dụng, góp phần hạn chế rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. Qua tham khảo tài liệu từ các tổ chức quốc tế, Tôi mạnh dạn đề xuất khi xây dựng mẫu biểu báo cáo cần phải tập trung làm rõ một số nội dung như sau (xem bảng 3.1 trang bên).