Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 5


hàng có thể chấp nhận trên cơ sở cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể. Hay nói cách khác, quản lý nợ xấu phải luôn nhằm vào việc kiểm soát tỷ lệ nợ xấu ở mức hợp lý để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của mỗi NHTM bằng hệ thống các chính sách, các biện pháp và các công cụ quản lý của mỗi ngân hàng.

2.3.2. Nội dung quản lý nợ xấu

Quản lý nợ xấu bao gồm 4 nội dung cơ bản:


NHẬN DIỆN

NỢ XẤU

ĐO LƯỜNG,

ĐÁNH GIÁ NỢ XẤU

XỬ LÝ NỢ

XẤU

NGĂN NGỪA

NỢ XẤU


2.3.2.1. Nhận diện nợ xấu

Nhận diện nợ xấu là việc phát hiện, xác định nợ xấu trên cơ sở các tiêu chí để nhận diện nợ xấu. Việc xác định đúng về con số và bản chất nợ xấu là một khâu quan trọng tác động đến tất cả các khâu còn lại của quá trình quản lý nợ xấu. Nhận diện nợ xấu chủ yếu thông qua đánh giá lại các khoản tín dụng và phụ thuộc vào tiêu chí xác định nợ xấu do Cơ quan quản lý Ngân hàng từng quốc gia và hệ thống tiêu chí nội bộ do ngân hàng xây dựng.

Hiện nay, các NHTM nhận diện nợ xấu thông qua các tiêu chí định tính (dựa vào mức độ nghi ngờ về khả năng trả nợ), định lượng (chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ) hoặc kết hợp định tính và định lượng.

Theo tiêu chí định tính, ngân hàng nhận diện nợ xấu thông qua việc đánh giá khả năng tài chính, lịch sử vay mượn và các thông tin liên quan khác nhằm dự báo khả năng trả nợ của khách hàng vay. Việc nhận diện theo các tiêu chí định tính thường phức tạp do phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin, độ lớn và tin cậy của dữ liệu, phương pháp và nội dung đánh giá.


Để nhận diện nợ xấu theo tiêu thức định tính (xác định nguy cơ không trả được nợ của khách hàng), ngân hàng căn cứ vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp và ngân hàng thu thập để đánh giá các khoản vay. Số lượng thông tin của mỗi khoản vay thu thập được căn cứ vào qui mô khoản vay và chi phí thu thập các thông tin đó. Các thông tin chủ yếu bao gồm:

- Khách hàng trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng.

- Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các qui định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.

- Khách hàng chậm hoặc trì hoãn thực hiện các báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng mà không có sự giải thích minh bạch, không thuyết phục.

- Khách hàng đề nghị gia hạn, điều chỉnh các khoản nợ nhiều lần không nêu

lý do.

- Có sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng mà

không giải thích được lý do.

- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn thanh toán.

- Xuất hiện nợ đáo hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả vì những lý do: tiêu thụ hàng chậm, thu hồi công nợ chậm...

- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, vượt quá nhu cầu dự kiến.

- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo giảm sút so với định giá cho vay, có các dấu hiệu cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi...

- Khách hàng có dấu hiệu trông chờ vào các khoản thu nhập bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Khách hàng chấp nhận sử dụng nguồn vốn lãi suất cao với mọi điều kiện.

Theo tiêu chí định lượng việc nhận diện thường đơn giản hơn vì chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn của khoản vay. Tuy nhiên, nhận diện theo hình thức này thường không chính xác vì trên thực tế có nhiều khoản nợ chưa quá hạn nhưng chất lượng nợ đã suy giảm, thậm chí không còn khả năng thu hồi.

Để khắc phục những hạn chế của hai hình thức nhận diện trên, nhiều quốc gia cho phép các NHTM nhận diện nợ xấu thông qua kết hợp cả tiêu chí định tính và định lượng.


Để đảm bảo nợ xấu được nhận diện kịp thời, cơ quan quản lý ngân hàng các quốc gia đều có qui định tần suất nhận diện nợ xấu. Thông thường việc đánh giá các khoản nợ để từ đó nhận diện nợ xấu có thể thực hiện định kỳ theo quí (Pháp, Việt Nam), hoặc nửa năm (Hà Lan) hoặc hằng năm (Hồng Kông, Đức). Tuy nhiên các khoản nợ đã được xác định là nợ xấu sẽ được đánh giá thường xuyên hơn nhằm quản lý chặt chẽ chất lượng nợ và có biện pháp xử lý thích hợp và hạn chế tổn thất.

2.3.2.2. Đo lường nợ xấu

Trên cơ sở kết quả nhận diện, các NHTM sẽ tiến hành đo lường, đánh giá nợ xấu. Mục đích chính của đo lường nợ xấu là xác định mức độ rủi ro, khả năng không trả được nợ của khách hàng, đánh giá mức độ tác động của nợ xấu đến hoạt động, kết quả kinh doanh của ngân hàng. Từ đó, xác định các biện pháp để xử lý phù hợp.

Thông thường tại các NHTM hiện nay, kết quả đo lường, đánh giá nợ xấu được thể hiện thông qua kết quả phân loại nợ. Các khoản nợ tương đồng về mức rủi ro và khả năng không trả được nợ được phân vào cùng 1 nhóm. Việc phân loại thành bao nhiêu nhóm nợ và các nhóm được tính là nợ xấu tùy thuộc vào qui định của cơ quan giám sát ngân hàng từng quốc gia và hệ thống phân loại nợ nội bộ của từng ngân hàng. Ví dụ ở Mỹ qui định 5 nhóm nợ, Brazil: 9 nhóm nợ. Mexico: 7 nhóm nợ, Singapore: 5 nhóm nợ, Việt nam: 5 nhóm nợ…trên cơ sở đó qui định các nhóm thuộc nợ xấu. Một số nước không qui định cụ thể về số nhóm nợ mà cho phép các ngân hàng tự xác định và phân loại nợ theo hệ thống phân loại nợ nội bộ. Ví dụ ở Anh và Hà Lan các ngân hàng phân loại nợ theo hệ thống phân loại nội bộ, cơ quan quản lý ngân hàng định kỳ sẽ xem xét, đánh giá tính phù hợp của hệ thống phân loại nợ. Ở Pháp qui định các yêu cầu tối thiểu về đánh giá nợ mà không có hướng dẫn cụ thể về phân loại nợ xấu, theo đó các ngân hàng tự xây dựng hệ thống phân loại nợ nội bộ theo yêu cầu của cơ quan quản lý.

Khi đánh giá nợ nói chung và nợ xấu nói riêng, một khách hàng có nhiều khoản nợ, việc xác định nhóm nợ cho các khoản nợ của cùng một khách hàng vay ở các quốc gia cũng rất khác nhau. Phần lớn qui định khi một khoản nợ được coi là nợ xấu thì các khoản nợ khác của cùng một khách hàng vay phải được xếp cùng 1 nhóm nợ (Ví dụ:ở Pháp, Việt nam, Úc, Chi Lê, Ấn độ…). Một số nước khác qui định khi một khoản nợ là nợ xấu, các khoản nợ khác của cùng một khách hàng vay


phải đánh giá lại, có thể xếp cùng nhóm hoặc khác nhóm nợ xấu tùy kết quả đánh giá. Theo quan điểm các nước này các khoản nợ khác của cùng một khách hàng có thể không xếp vào cùng nhóm nợ vì còn tùy thuộc vào tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh và các hình thức đảm bảo khác của từng món vay riêng biệt (Ví dụ: Hồng Kông, Đức). Một số nước khác cho phép ngân hàng tự quyết định (Anh, Hà Lan, Trung Quốc). Thậm chí ở Nhật cho rằng các món nợ khác không cần đánh giá lại khi một trong số các món nợ của cùng một khách hàng bị chuyển sang nợ xấu.

Để đo lường nợ xấu, đánh giá nợ xấu, các NHTM thường sử dụng một số chỉ tiêu sau đây:

- Tổng số nợ xấu: Là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết quy mô các khoản nợ xấu mà ngân hàng phải đối mặt nhưng chưa cho biết trong tổng số dư nợ xấu nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu, nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu và cũng chưa phản ánh được tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ có vượt mức khống chế theo khẩu vị rủi ro của ngân hàng là bao nhiêu.

- Tỷ lệ nợ xấu

=

Tổng số nợ xấu

x

100%

Tổng dư nợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 5

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu càng cao thì chất lượng hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng càng kém và ngược lại (trong mối tương quan so sánh với khẩu vị rủi ro của ngân hàng). Theo thông lệ nếu tỷ lệ nợ xấu < hoặc =5% thì chất lượng hoạt động cho vay xem như bình thường, càng nhỏ hơn 5% càng tốt. Ngược lại, nếu tỷ lệ nợ xấu >5% thì chất lượng hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đang có vấn đề.

- Tỷ lệ nợ khó đòi/ Tổng dư nợ và Nợ khó đòi/ Nợ xấu: Các tỷ lệ này cho biết chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi - một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ tiêu phản ánh một cách khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.

- Tỷ lệ giữa các khoản xóa nợ trong năm so với tổng dư nợ cho vay:


Tỷ lệ các khoản

xóa nợ

=

Dư nợ các khoản được xóa nợ trong năm

x

100%

Tổng dư nợ trong năm


Các khoản xóa nợ là các khoản vay được ngân hàng đánh giá là không có khả năng thu hồi vốn và được phân vào nhóm 5. Các khoản vay này được ngân hàng dùng quĩ dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro và theo dõi ở ngoại bảng.

- Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng dư nợ cho vay kỳ báo cáo:


Tỷ lệ dự phòng

RRTD

=

Dự phòng RRTD được trích lập

x

100%

Tổng dư nợ

Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ tín dụng theo cam kết. Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.

- Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng so với các khoản nợ xấu:


Tỷ lệ dự phòng so với

các khoản nợ xấu

=

Dự phòng RRTD

x

100%

Các khoản nợ xấu

Tỷ lệ này phản ánh quĩ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quĩ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng lớn và ngược lại.

Hai chỉ tiêu Tỷ lệ dự phòng RRTD và Tỷ lệ giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với các khoản nợ xấu nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quĩ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại. Hai chỉ tiêu này càng cao thì sự chủ động của ngân hàng khi có rủi ro tín dụng xảy ra càng cao.

Theo Hiệp ước Basel 2 do Ủy ban Basel ban hành năm 2004, để đo lường rủi ro tín dụng nói chung và nợ xấu nói riêng, ngân hàng cần ước lượng các yếu tố cơ bản: PD, EAD và LGD.

Thứ nhất, PD - Xác suất không trả được nợ. Cơ sở để tính toán xác suất này là hạng tín dụng của khách hàng, thời hạn và qui mô của khoản vay, kế hoạch trả nợ của khách hàng và chu kỳ kinh tế, trong đó quan trọng nhất là hạng tín dụng của khách hàng. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được xác suất không trả được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân hàng phải căn cứ vào số liệu của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó. Những dữ liệu được phản ánh theo 3 nhóm sau:


- Nhóm dữ liệu tài chính: liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng.

- Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính: liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành.

- Những dữ liệu mang tính cảnh báo: liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi.

Từ những dữ liệu trên ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được hạng tín dụng và xác suất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp.

Thứ hai, LGD - Tỷ trọng tổn thất của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các khoản tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan.

Tỷ trọng tổn thất ước tính có thể tính toán theo công thác sau: LGD = (EAD- Số tiền có thể thu hồi)/EAD

Trong đó EAD là tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể được coi là 100% tỷ lệ vốn có thể thu hồi được

Trên cơ sở xác định các yếu tố trên, ngân hàng cần xác định tổn thất dự tính được - EL và Khoản tổn thất không dự tính được - UL của một khoản vay.

Tổn thất dự tính được(EL):

Tổn thất dự tính được là mức tổn thất trung bình mà có thể tính được từ các số liệu thống kê trong quá khứ, đây là mức tổn thất ngân hàng kỳ vọng sẽ xảy ra trong một khoảng thời gian ngân hàng có thể sử dụng chỉ tiêu tổn thất trong dự tính làm chuẩn để ra quyết định cho vay. Nếu tổn thất trong dự tính của một khách hàng vượt quá một tỷ lệ theo qui định của ngân hàng thì ngân hàng sẽ tự động từ chối cho vay với


khách hàng. Đồng thời, trên cơ sở mức tổn thất dự tính được là căn cứ để ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro.

Theo đó, đối với mỗi khoản vay hay mỗi khách hàng, tỷ lệ tổn thất dự tính _ EL sẽ được xác định:

EL = LGD * PD

Trong đó:

- LGD: Là tỷ trọng tổn thất của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ.

- PD: Xác suất không trả được nợ của khách hàng.

Giá trị tổn thất dự kiến sẽ bằng: Tỷ lệ tổn thất dự kiến nhân (x) Dư nợ của khách hàng tại thời điểm tính toán.

Nói cách khác, giá trị tổn thất dự kiến EL = LGD * PD * EAD

Trong đó:EAD: Dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ.

Các chỉ tiêu cấu thành công thức trên được tính toán như sau:

Theo thống kê của Ủy ban Basel tỷ lệ thu hồi vốn thường mang giá trị rất cao (70% - 80%) hoặc rất thấp (20% - 30%). Do đó trong tính toán không nên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi vốn bình quân. Hai yếu tố quan trọng nhất quyết định đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của khách hàng.

Tổn thất không dự tính được: (UL)

Tổn thất không dự tính được (UL) của một khoản vay được hiểu là giá trị của độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình (tổn thất dự tính được EL). Nguồn để bù đắp tổn thất ngoài dự tính chính là từ vốn chủ sở hữu của ngân hàng, bởi vậy ngân hàng cần nắm giữ đủ vốn để bù đắp cho tổn thất này.

Theo Basel 2, để đánh giá tác động của nợ xấu, ngân hàng cần tính EL và UL cho danh mục tín dụng.

Đối với tổn thất dự tính của danh mục: Tổng cộng các khoản tổn thất trong dự tính của từng khách hàng vay vốn trong danh mục tín dụng của ngân hàng tạo thành tổn thất trong dự tính của toàn bộ danh mục tín dụng. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ xây dựng chính sách định giá và trích lập dự phòng nhằm bù đắp tổn thất cho từng khoản vay, từng khách hàng và toàn bộ danh mục cho vay.


Đối với tốn thất không dự tính được của danh mục: xác định qua 3 bước:

Bước 1: Xác định UL riêng lẻ của từng khoản vay, chưa xem xét đến hiệu ứng của mối tương quan.

Bước 2: Ước lượng hệ số tương quan vỡ nợ của các khoản vay riêng lẻ trong cùng một danh mục. Hệ số tương quan vỡ nợ có thể được tính toán thông qua số liệu thống kê hoặc các mô hình.

Bước 3: Xác định tổn thất không dự tính được UL trong xem xét mối quan hệ tương quan vỡ nợ giữa các khoản vay trong danh mục.

Kết quả xác đinh EL, UL của từng khoản tín dụng riêng lẻ và danh mục tín dụng là cơ sở để xác định mức độ rủi ro và khả năng tác động của từng khoản nợ, danh mục tín dụng. Từ đó ngân hàng có biện pháp ứng phó để kiểm soát nợ xấu ở mức độ hợp lý.

2.3.2.3. Ngăn ngừa nợ xấu

Sau khi các khoản nợ xấu được đo lường, đánh giá, các nhà quản trị NHTM sẽ phải sử dụng các biện pháp nhằm giữ nợ xấu trong phạm vi mà ngân hàng chấp nhận đã được xác định trong từng giai đoạn. Để kiểm soát nợ xấu, các NHTM nên áp dụng một hệ thống các biện pháp cơ bản theo nguyên tắc của Basel II, đó là:

Thứ nhất, xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng.

Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng là xây dựng cách thức quản lý rủi ro tín dụng tổng thể của một ngân hàng, trong đó thể hiện được cách thức tổ chức quản lý, thực hiện qui trình tín dụng, nhận biết, đo lường, kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm khống chế rủi ro trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận.

Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng cho phép các NHTM có sự nhìn nhận chính xác hơn về triển vọng kinh doanh của ngân hàng trong tương lai, từ đó có khả năng hoạch định chính sách kinh doanh phù hợp. So với các chỉ tiêu phản ánh thực tế kinh doanh như doanh thu, mức sinh lời, các khoản lãi và phí… thì rủi ro lại mang tính “dự đoán”. Nói đến rủi ro là nói đến những biến cố xảy ra không chắc chắn. Trên thực tế người ta có thể xem nhẹ kết quả trong tương lai để chú trọng hơn vào những mục tiêu trước mắt. Việc xem nhẹ rủi ro như vậy có nghĩa NHTM có thể sẽ phải chịu những tổn thất nặng nề xảy ra trong tương lai. Do đó, quan tâm đến xây dựng mô hình quản lý rủi ro có nghĩa là các nhà ngân hàng đã đưa rủi ro vào thành

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí