Các Nghiên Cứu Về Hoạt Động Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam


Các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào nghiên cứu một khía cạnh nhỏ trong quản lý nợ xấu ở Việt Nam hoặc ở các nước như: quản lý nợ xấu trong tái cấu trúc DNNN; cơ chế xử lý nợ xấu; khía cạnh pháp lý trong xử lý nợ xấu… không gắn với các ngân hàng thương mại cụ thể.

- Chuyên đề nghiên cứu của Trung tâm thông tin dữ liệu (CIEM), Giải quyết nợ xấu - vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Hà Nội, 2013.

Công trình nghiên cứu trên tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu, kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, phân tích thực trạng diễn biến nợ xấu ở Việt Nam, từ đó gợi ý các vấn đề về chính sách cho xử lý nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam. Do công trình nghiên cứu vào xử lý nợ xấu chứ không phải quản lý nợ xấu, hơn nữa nghiên cứu trong bối cảnh số liệu chung của tất cả các TCTD ở Việt Nam vì vậy các gợi ý chỉ mang tính chất định hướng cho các TCTD, không có tính cụ thể đối với NHNo&PTNT Việt Nam.

1.1.2. Các nghiên cứu về hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

- Luận án tiến sỹ với đề tài: “Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [68] của Âu Văn Trường, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 1999.

Luận án thiên về nghiên cứu công nghệ tin học được vận dụng trong quản lý ngân hàng nói chung tại NHNo&PTNT Việt Nam. Nội dung được đề cập và nghiên cứu khi trình độ quản lý và công nghệ ngân hàng ở nước ta còn lạc hậu, hoạt động tín dụng bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và một số vụ án kinh tế lớn, hoạt động tín dụng hộ nghèo chưa tách khỏi NHNo&PTNT Việt Nam. Qua nghiên cứu công trình cho thấy nội dung thời điểm đó không đề cập đến quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Luận án tiến sỹ với đề tài: “Giải pháp huy động và sử dụng vốn ngoại tệ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” [61] của Nguyễn Mạnh Tiến, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2002.

Luận án thiên về đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp trong huy động và sử dụng vốn ngoại tệ của NHNo&PTNT Việt Nam. Vì vậy toàn bộ nội dung về quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam không được đề cập.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

- Luận án tiến sỹ với đề tài: “Giải pháp phát triển và hoàn thiện hoạt động thuê mua ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” [66] của Nguyễn Quốc Trung, Học viện Ngân hàng, năm 2004.

Nội dung luận án tập trung nghiên cứu về phát triển và hoàn thiện hoạt động thuê mua, đây là hoạt động NHTM thực hiện hoặc công ty độc lập tiến hành. Quản trị rủi ro hoạt động thuê mua được luận án đề cập không nhiều và có tính đặc thù so với quản lý nợ xấu nói chung, tập trung tại hai Công ty cho thuê tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam là Công ty Cho thuê tài chính 1 và Công ty Cho thuê tài chính 2. Phạm vi thời gian nghiên cứu cũng trong giai đoạn đầu cơ cấu lại hai hệ thống ngân hàng thương mại theo đề án của Chính phủ, song trong điều kiện mở của thị trường tài chính, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thực tế đã thay đổi cơ bản cả về quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro trong hoạt động thuê mua nói riêng.

Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 3

- Luận án tiến sỹ với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” [50] của Đoàn Văn Thắng, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2003.

Công trình nghiên cứu đề cập khá rộng các hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn cơ cấu lại theo Đề án của Chính phủ sau ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực. Luận án chỉ đề cập sơ qua về quản trị rủi ro tín dụng, không đi sâu vào lĩnh vực rủi ro tín dụng và nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam và không có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay.

- Luận án tiến sỹ với đề tài: “Chiến lược phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập” [71] của Phạm Minh Tú, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2009.

Luận án đề cập khá rộng đến chiến lược phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Luận án chỉ đề cập sơ qua về quản trị rủi ro tín dụng, không đi sâu vào lĩnh vực rủi ro tín dụng và nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam và không có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay.

- Luận văn thạc sỹ với đề tài: “Phát triển bền vững ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” [44] của Nguyễn Thanh Phương tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2011.


Công trình nghiên cứu nói trên tập trung vào phân tích, đánh giá thực trạng phát triển theo hướng bền vững của NHNo&PTNT Việt Nam trong giai đoạn 2008

- 2011 trên các khía cạnh về độ tiếp cận của ngân hàng, về tính an toàn của ngân hàng và về khả năng sinh lời của ngân hàng. Tuy nhiên, trên cơ sở thực trạng nói trên, luận văn tập trung vào các giải pháp nhằm phát triển NHNo&PTNT Việt Nam theo hướng bền vững.

1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU

Như vậy, tác động tiêu cực của nợ xấu là gì, thực trạng quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam và giải pháp để tăng cường quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam như thế nào? Đây là những câu hỏi nghiên cứu và câu hỏi quản lý cần phải có lời giải đáp.

Xuất phát từ tổng quan nghiên cứu cũng như xuất phát từ câu hỏi quản lý, câu hỏi nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định hướng tiếp cận của đề tài là: Để quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam thông qua các giải pháp nhận biết nợ xấu, giải pháp đo lường, đánh giá nợ xấu, giải pháp ph òng ngừa, kiểm soát nợ xấu, các giải pháp xử lý nợ xấu kể cả từ phía cơ quan Nhà nước, Hiệp hội ngân hàng, NHNo&PTNT Việt Nam và bản thân các doanh nghiệp.

1.2.1. Nghiên cứu sẽ tìm ra điều gì

Nghiên cứu sẽ xác định vấn đề quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở các vấn đề lý luận như nợ xấu là gì, nguyên nhân của nợ xấu, tác động tiêu cực của nợ xấu, các chỉ tiêu đo lường nợ xấu. Từ đó đưa ra những vấn đề căn bản trong quản lý nợ xấu đối với NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới như: Qui trình xử lý nợ xấu như thế nào? Việc bán nợ và xử lý tài sản đảm bảo ra sao? Trích lập và quản lý quỹ dự phòng rủi ro tín dụng tại ngân hàng thế nào có hiệu quả? Khung pháp lý cho hoạt động phòng ngừa và xử lý nợ xấu? Trình độ công nghệ thông tin và trình độ cán bộ, đạo đức kinh doanh của cán bộ ngân hàng? Các cơ quan Nhà nước sẽ làm gì để tạo điều kiện cho doanh nghiệp giải phóng hàng tồn kho, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, hạn chế nợ xấu…

1.2.2. Điều đó khác nghiên cứu khác ở đâu?

Giải pháp quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở bám sát định hướng, quan điểm trong hoạt động cho vay cũng như quan điểm trong quản


lý nợ xấu của chính bản thân ngân hàng, xuất phát từ thực trạng quản lý nợ xấu từ đó xác định giải pháp quản lý nợ xấu cho phù hợp với thực tế là cách tiếp cận chưa được nghiên cứu sâu, có hệ thống ở các công trình trước đây đã công bố.

1.3. ĐIỂM YẾU VÀ ĐIỂM MẠNH CỦA NGHIÊN CỨU

Điểm yếu của nghiên cứu này là: Đây là vấn đề không mới ở Việt Nam nhưng tương đối nhạy cảm trong xã hội, do vậy chưa có nhiều người nghiên cứu từ các tài liệu liên quan cho đến các văn bản pháp qui đề cập đến nội dung này còn hạn chế. Do đó, ở cả giác độ lý luận và thực tiễn, vấn đề này đang cần đầu tư nghiên cứu ở Việt Nam, cần có sự hệ thống hóa, đánh giá đầy đủ thực trạng về quản lý nợ xấu của các NHTM.

Điểm mạnh của nghiên cứu là: Luận án sử dụng cách tiếp cận mới, với nguồn số liệu cập nhật và chính xác cao, đầy đủ được thu thập từ nguồn đáng tin cậy, chất lượng. Mặt khác quản lý nợ xấu đối với các NHTM Việt Nam hiện nay là vấn đề thời sự nóng bỏng, được sự quan tâm của các cấp, các ngành và tổ chức tín dụng… Vấn đề quan trọng là luận án cần có sự đánh giá sâu sắc, chi tiết về thực trạng quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam, từ đó đề ra những giải pháp sát thực và phù hợp.

1.4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA NGHIÊN CỨU

1.4.1. Về ý nghĩa khoa học

Thông qua việc sưu tầm, tổng hợp và phân tích, đánh giá từ các nguồn tài liệu liên quan sẽ luận giải và hệ thống NHTM.

1.4.2. Về ý nghĩa thực tiễn

Đã nghiên cứu, đề xuất được các giải pháp quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể, đã đưa ra được các giải pháp như: Hoàn thiện việc nhận diện, đánh giá, phân loại nợ xấu; Hoàn thiện chiến lược và mô hình quản trị rủi ro tín dụng, tổ chức lại bộ máy quản trị rủi ro tín dụng; Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng; Nâng cao sức mạnh tài chính; Đổi mới công nghệ ngân hàng; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp; Chú trọng tăng trưởng tín dụng bền vững và các giải pháp điều kiện và hỗ trợ... Nhóm các giải pháp điều kiện hỗ trợ bao gồm nhóm giải pháp từ Chính phủ và Ngân hàng nhà nước.


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1.1. Khái niệm và đặc trưng của ngân hàng thương mại

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.

Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.

Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.

Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và được phép sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán”.

Theo Khoản 2, Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam năm 2010 có nêu: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.

Trong đó, “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.

Như vậy, NHTM là tổ chức tín dụng thực hiện chức năng cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ


chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó tạo nên lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.

Qua những khái niệm trên, ta có thể rút ra một số điểm đặc trưng của NHTM như sau:

- NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.

- NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác

- NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tín dụng - là loại hình hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nên luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý.

Hiện nay, NHTM thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông tạo nên sự tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa khái quát về NHTM như sau: “Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với các hoạt động chủ yếu là huy động vốn, cho vay, đầu tư và các hoạt động dịch vụ nhằm một trong các mục tiêu quan trọng là tối đa hoá lợi nhuận”.

2.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

2.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc chuyển giao quyền sử dụng vốn cho các tổ chức và cá nhân để họ sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh, tiêu dùng trên nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa ngân hàng và tổ chức, cá nhân đó. Tín dụng được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay. Thực chất tín dụng là dựa trên cơ sở lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.

Có thể hiểu tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong đó ngân hàng chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho


các chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn (người được cấp tín dụng) trong một khoảng thời gian xác định. Hết thời hạn theo thỏa thuận, người được cấp tín dụng có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ngân hàng một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.

Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng (năm 2010), “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.

Tín dụng của NHTM có một số đặc trưng chủ yếu sau:

Một là, chủ thể tham gia giao dịch tín dụng gồm: người đi vay (tổ chức tín dụng) và người cho vay (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân), các tổ chức.

Hai là, trong hoạt động cho vay, người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày xác định mà hai bên đã thoả thuận; người cho vay chỉ chuyển giao tiền cho người đi vay sử dụng khi có đủ cơ sở tin tưởng rằng người vay sẽ trả đúng hạn, tiền mà ngân hàng cho vay thường không thuộc sở hữu của ngân hàng.

Ba là, giá trị khoản tiền được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị ban đầu, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc.

Bốn là, việc người đi vay hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi cho người cho vay khi đến thời hạn thanh toán là vô điều kiện.

2.1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng

- Nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng, có 3 loại:

+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, các tổ chức và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.

+ Tín dụng trung hạn: là loại hình tín dụng chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh, thời hạn vay từ 1-5 năm (hoặc 1- 7 năm tùy theo quan niệm từng nước).

+ Tín dụng dài hạn: là loại hình tín dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng các công trình có qui mô lớn, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp mới... có thời hạn vay trên 5 năm (hoặc trên 7 năm).


- Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:

+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại hình tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành các hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá.

+ Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình tín dụng cấp cho các cá nhân, hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt như mua sắm nhà cửa, xe, các hàng hoá tiêu dùng khác.

- Căn cứ vào bảo đảm tín dụng

+ Tín dụng không bảo đảm bằng tài sản: Là loại hình tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.

+ Tín dụng bảo đảm bằng tài sản: Là loại hình tín dụng đòi hỏi người được cấp tín dụng phải có tài sản có giá trị để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ.

Ngoài ra, tùy vào mục tiêu nghiên cứu và quản lý mà có thể sử dụng các tiêu thức khác để phân loại như: căn cứ vào đồng tiền cấp tín dụng, căn cứ vào phương thức hoàn trả...

Trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro là điều khó tránh khỏi. Trong trường hợp, việc cho vay vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến việc khách hàng không trả nợ được một phần hay toàn bộ khoản vay (gồm gốc và lãi) trong một thời gian dài, khoản vay đó có thể bị xếp vào thành khoản nợ xấu. Một khi nợ xấu xảy ra thì sẽ kéo theo nhiều hệ lụy về mặt tài chính đối với cả người cho vay và đi vay và cần phải có những cơ chế, biện pháp đặc thù xử lý các khoản nợ xấu này. Phần tiếp theo sẽ đề cập đến khái niệm và nội hàm của phạm trù nợ xấu.

2.2. NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.2.1. Khái niệm nợ xấu

Nhóm chuyên gia tư vấn (AEG) của Liên Hợp quốc cho rằng định nghĩa nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên được sử dụng như hướng dẫn cho các ngân hàng (AEG, 2004). AEG thống nhất định nghĩa “Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã thanh toán dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Nói cách

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí