học về chuyên ngành môi trường, 2 cử nhân có bằng đại học về điện dân dụng, theo quy định vẫn còn thiếu 01 nhân viên vận hành có bằng đại học về chuyên ngành môi trường.
- Các doanh nghiệp trong KCN Hòa Phú
Chịu trách nhiệm về công tác BVMT và thực hiện đúng hợp đồng cam kết về nồng độ nước thải với Công ty PTHT KCN Hòa Phú. Nhưng đa số các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng với cam kết về nồng độ nước thải, một số doanh nghiệp chưa hoàn thành các công trình kỹ thuật bảo vệ môi trường, chưa xây dựng hệ thống thu gom nước thải, chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải, hoặc nhân viên vận hành không có bằng cấp đúng với chuyên môn.
2.3.4. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về nước thải của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp
Công tác bảo vệ môi trường tại Khu công nghiệp Hòa Phú đã và đang được các cấp, ngành, doanh nghiệp quan tâm thực hiện. Để đảm bảo thực hiện tốt công tác BVMT trong KCN thì việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là một công cụ cần thiết trong việc QLNN về môi trường trong KCN. Hoạt động thanh tra, kiểm tra được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất. Nội dung thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật, theo đề cương hoặc trong những trường hợp cần thiết thì lấy mẫu phân tích để xác định nồng độ ô nhiễm, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh tra, kiểm tra thì hàng năm Ban quản lý các KCN tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Sở TNMT, công an môi trường thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra công tác BVMT của các doanh nghiệp trong KCN Hòa Phú theo định kỳ 1 lần/ năm. Nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về công tác BVMT trong KCN nói chung và đặc biệt là công tác quản lý về nước thải của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây tỉnh ĐắkLắk đã xiết chặt quản lý và quan tâm đặc biệt đến các doanh nghiệp có phát sinh nước thải trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất được thực hiện khi phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, qua đó đóng góp rất tích cực trong công tác QLNN về nước thải của các doanh nghiệp trong KCN, buộc các doanh nghiệp vi phạm phải khắc phục hậu quả và triển khai các biện pháp BVMT đúng theo quy định. Trong 6 tháng cuối năm 2020 đã phát hiện và xử
lí 5 vụ xả thải nước thải không đúng quy định trong KCN Hòa Phú[18]. Tuy nhiên do tần suất công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý còn thấp, đa số khi đi kiểm tra đều báo trước cho các doanh nghiệp chuẩn bị, dẫn đến nhiều doanh nghiệp trong KCN đối phó đoàn kiểm tra, qua mắt nhiều lần, nhiều hành vi vi phạm còn bị bỏ sót. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng thời điểm trời mưa, đêm tối mới tiến hành xả thải dẫn đến công tác thanh tra, kiểm tra gặp nhiều khó khăn, rất khó để phát hiện các hành vi vi phạm phát luật về BVMT trong KCN.
Có thể bạn quan tâm!
- Khu Công Nghiệp Hòa Phú, Thành Phố Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk
- Biểu Đồ Thể Hiện Nồng Độ Cod Nước Thải Của Doanh Nghiệp
- Thực Trạng Tổ Chức, Phổ Biến Các Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Trong Công Tác Quản Lý Nhà Nước Về Nước Thải Của Các Doanh Nghiệp Trong Khu Công Nghiệp
- Quan Điểm, Định Hướng Phát Triển Các Khu Công Nghiệp Của Tỉnh Đắk Lắk
- Tăng Cường Công Tác Thanh Tra, Kiểm Tra, Xử Lý Vi Phạm Trong Quản Lý Nhà Nước Về Nước Thải Các Khu Công Nghiệp
- Tăng Các Chế Tài Xử Lý Vi Phạm Về Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Trong Các Khu Công Nghiệp
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Nhìn chung, các doanh nghiệp trong KCN đã thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi trường theo nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc Bản cam kết bảo vệ môi trường được phê duyệt. Đã xây dựng các hạng mục công trình xử lý nước thải, bố trí cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường, thực hiện nghiêm túc chương trình quan trắc môi trường định kỳ và chế độ báo cáo theo quy định. Đối với những tồn tại, hạn chế, Ban Quản lý Khu công nghiệp đã có văn bản hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở khắc phục.
2.4. Đánh giá kết quả quản lý nhà nước về nước thải tại Khu công nghiệp
2.4.1. Các kết quả đạt được
Thời gian qua, công tác QLNN về nước thải Khu công nghiệp tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được khá nhiều kết quả tích cực, đóng góp vào công tác bảo vệ môi trường hướng đến sự phát triển bền vững. Hoạt động quản lý nhà nước đối với KCN của tỉnh Đắk Lắk đã không ngừng được đổi mới và quan tâm, việc phân cấp quản lý nhà nước bước đầu đã có sự thay đổi về chất nên đã hỗ trợ tích cực cho quá trình hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp KCN trên địa bàn. Mỗi cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ khác nhau nhưng đã có sự phối hợp cụ thể để đạt được hiệu quả cao trong QLNN. Ban quản lý các KCN tỉnh Đắk Lắk đã được trao nhiều quyền hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về các KCN, góp phần nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư. Có thể tổng kết được những kết quả nổi bật trong công tác QLNN về nước thải tại Khu công nghiệp của tỉnh Đắk Lắk như sau:
- Thứ nhất, công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch quản lý môi trường KCN:
UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quy chế phối hợp bảo vệ môi trường KCN, trên địa bàn tỉnh tại Quyết định số 32/2017/QĐ-UBND ngày 16/11/2017. Việc ban hành và triển khai thực hiện Quy chế có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao hiệu quả phối hợp, hỗ trợ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường KCN giữa Ban quan lý các KCN tỉnh Đắk Lắk với Sở Tài nguyên và Môi trường và công an tỉnh Đắk Lắk. Hệ thống VBQPPL về bảo vệ môi trường không ngừng được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện theo hướng phù hợp với thực tiễn, các VBQPPL về bảo vệ môi trường mới được ban hành nhanh chóng được hướng dẫn và tổ chức thực hiện cho các đối tượng quy định.
Xác định được tầm quan trọng của công tác tập huấn, tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường, BQL các KCN tỉnh Đắk Lắk đã phối hợp với các Sở, ban, ngành chức năng tổ chức tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường sâu rộng trong các doanh nghiệp, phổ biến các chính sách, văn bản pháp luật về BVMT tại các KCN, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các hoạt động thiết thực ý nghĩa như: Treo băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền với chủ đề bảo vệ môi trường, chỉ đạo các đoàn thể tổ chức các hoạt động ra quân làm vệ sinh môi trường tại các KCN.
Qua đó, nâng cao nhận thức về công tác BVMT của các doanh nghiệp trong các KCN ngày càng được quan tâm. Các doanh nghiệp đã chú trọng, quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như các điều khoản cam kết theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, bản cam kết BVMT được phê duyệt. Nhờ các hoạt động phổ biến các VBQPPL này thì việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp trong công tác BVMT trong KCN đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đa số các doanh nghiệp đã thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), có kế hoạch bảo vệ môi trường và quyết định phê duyệt ĐTM, đề án bảo vệ môi trường, phương án phục hồi môi trường thực hiện tốt hơn, cơ bản các doanh nghiệp đã có đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
+ Đối với các doanh nghiệp trong các KCN: Các doanh nghiệp đã thực hiện nghiêm túc việc giám sát môi trường hàng năm và chế độ thông tin, báo cáo công tác bảo vệ môi trường của doanh nghiệp mình. Thực hiện những nội dung đã cam kết tại báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường của đơn vị mình.
+ Đối với doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN: Đã chủ động thực hiện công tác bảo vệ môi trường như trong cam kết, vận hành hiệu quả nhà máy xử lý nước thải tập trung của KCN, thực hiện giám sát môi trường, quan trắc môi trường theo định kỳ, thực hiện chế độ báo cáo thông tin kết quả quan trắc môi trường nghiêm túc, thường xuyên và kịp thời.
Về cơ bản, các doanh nghiệp, cơ sở SXKD đã thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Các Doanh nghiệp đã chủ động lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc Bản cam kết BVMT trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp đã chấp hành theo các quy định của pháp luật về BVMT cũng như các điều khoản cam kết theo Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Bản cam kết BVMT, đã xây dựng các hạng mục công trình xử lý môi trường để thu gom và xử lý chất thải phát sinh, bố trí cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường, thực hiện nghiêm túc chương trình quan trắc, giám sát chất lượng môi trường hàng năm và chế độ thông tin, báo cáo công tác bảo vệ môi trường theo đúng quy định.
- Thứ hai, hoạt động thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN:
Hàng năm, Ban quản lý KCN Đắk Lắk phối hợp với các Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, ban, ngành liên quan tổ chức các cuộc kiểm tra về công tác BVMT của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, trên địa bàn tỉnh. Đồng thời phối hợp với các đoàn thanh tra, kiểm tra do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức nhằm chấn chỉnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về BVMT trong các KCN.
Qua các đợt kiểm tra, thanh tra cho thấy việc phát sinh ô nhiễm môi trường trong các KCN, được kiểm soát chặt chẽ. Kết quả đo đạc, quan trắc chất lượng môi trường hàng năm cũng như kết quả của các đợt thanh tra do Bộ Tài nguyên và Môi trường, các sở, ban, ngành chức năng của tỉnh tổ chức đều nằm trong giới hạn cho phép theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành không có trường hợp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng xảy ra.
- Thứ ba, công tác bảo vệ môi trường trong KCN được quan tâm, chú
trọng:
Trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường trong các KCN luôn
được quan tâm, chú trọng và đặt lên hàng đầu. Vấn đề đảm bảo môi trường
trong KCN luôn được ưu tiên xử lý, tập trung vào công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn các nhà đầu tư thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường ngay từ bước lập dự án đầu tư. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư công, triển khai xây dựng và hoàn thành một số công trình môi trường quan trọng như hoàn thành nhà máy xử lý nước thải tập trung KCN Hòa Phú với công suất 2900 m3 ngày.đêm, vận hành nhà máy xử lý
nước thải đạt kết quả như quy định. Xây dựng nhà máy xử lý nước sạch, tiến tới nghiên cứu đề xuất mở rộng KCN Hòa Phú giai đoạn 2.
Ban quản lý các KCN tỉnh đã tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến kiến thức về công tác BVMT cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp cũng cử người lao động hoặc quản lý tham gia lớp tập huấn, qua đó thể hiện sự tương tác giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước, thông qua các lớp tập huấn các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước có thể hỗ trợ, tháo gỡ, trao đổi những vấn đề còn vướng mắc liên quan đến công tác BVMT.
- Thứ tư, công tác tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực thực hiện công tác bảo vệ môi trường KCN được đầu tư:
Ban quản lý các KCN tỉnh và Sở TN&MT tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường nói chung, quản lý nhà nước về nước thải KCN nói riêng, tại Ban quản lý các KCN tỉnh và Sở TN&MT tỉnh có những cán bộ có trình độ chuyên môn về môi trường thực hiện công tác QLNN về môi trường KCN, tại doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN và doanh nghiệp trong KCN cũng có những lao động có trình độ chuyên môn về môi trường trực tiếp thực hiện công việc vận hành các công trình bảo vệ môi trường nên công tác BVMT KCN sẽ càng được đảm bảo, các rủi ro về vấn đề môi trường sẽ được hạn chế.
Hàng năm các cán bộ và người lao động làm công tác về môi trường KCN sẽ được tập huấn và học các lớp nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện công việc chuyên môn được tốt hơn. Qua đó, góp phần phổ biến kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong lĩnh vực BVMT, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác QLNN về BVMT để chỉ đạo và thực hiện tốt hơn công tác BVMT tại đơn vị.
Khu công nghiệp Hòa Phú là KCN đầu tiên của tỉnh Đắk Lắk khi xây dựng đã được sự quan tâm từ các cấp, các ngành, các nguồn lực sẽ được đầu tư mạnh mẽ, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư xây dựng bài bản, phân khu chức năng quy hoạch rõ ràng, hạ tầng kỹ thuột bảo vệ môi trường như hệ thống
đường ống thu gom nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung được đầu tư xây dựng với công nghệ tiên tiến, hiện đại, nước thải được xử lý đạt chuẩn trước khi xả thải ra môi trường theo đúng quy định.
2.4.2. Các mặt hạn chế
- Thứ nhất, công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch quản lý môi trường KCN:
Công tác quản lý nhà nước về nước thải Khu công nghiệp hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa được giao thống nhất cho một cơ quan, mà được phân công cho nhiều sở, ngành cùng tham gia quản lý, bao gồm Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, Công an tỉnh...
Tuy nhiên, trên thực tế, hiện trạng tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý nhà nước về nước thải công nghiệp tại các khu công nghiệp chủ yếu do Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý Khu công nghiệp tỉnh là hai đơn vị đảm nhiệm thực hiện. Như vậy, rõ ràng có sự chồng chéo giữa văn bản quản lý và thực trạng triển khai thực hiện.
Các mục tiêu của các chính sách thu hút đầu tư được đề ra rất rõ ràng và cụ thể, nhưng hiện tại một số nội dung thực hiện chưa tốt như: Không tuân thủ đúng đắn quy hoạch chi tiết KCN đã được phê duyệt, việc thu hút đầu tư một số các ngành nghề không đúng quy hoạch phân khu chức năng được duyệt, các doanh nghiệp nhỏ và có công nghệ lạc hậu, các doanh nghiệp phát sinh ô nhiễm nặng.
Ban quản lý các KCN tỉnh Đắk Lắk chưa triển khai xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường trong Khu công nghiệp theo hướng dẫn tại điều 12, Thông tư số 35/2015/TTBTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Thứ hai, hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN:
Về công tác thanh, kiểm tra, do lực lượng mỏng, thiếu trang thiết bị nên hiệu quả cũng chưa đạt như mong muốn, bên cạnh đó, hiện nay, công tác thanh tra kiểm tra đối với doanh nghiệp thực hiện theo Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp.
Theo đó, công tác thanh tra, kiểm tra chỉ được thực hiện theo Kế hoạch
của UBND tỉnh phê duyệt hàng năm, đảm bảo không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp. Kế hoạch, thời gian, nội dung được thông báo rõ ràng cho đơn vị được kiểm tra. Mặc dù quy định như trên có ưu điểm là đảm bảo tính công khai minh bạch, giúp đối tượng được thanh tra, kiểm tra chủ động bố trí thời gian làm việc nhưng lại có hạn chế là do nắm được lịch thanh tra, kiểm tra cụ thể, các doanh nghiệp sẽ có hành vi đối phó như dừng hoạt động hoặc hoạt động giảm công suất đúng vào thời điểm thanh tra theo kế hoạch, do đó kết quả thanh tra, kiểm tra không thu được kết quả theo yêu cầu.
Tần suất thực hiện thanh tra, kiểm tra chưa liên tục, nhiều nội dung thanh tra, kiểm tra không đúng trọng tâm, hình thức thanh tra, kiểm tra chưa phù hợp dẫn đến không phát hiện được nhiều vụ việc vi phạm về môi trường. Kết quả thanh tra, kiểm tra nhiều khi bỏ sót các hành vi vi phạm. Các vi phạm trong việc chấp hành pháp luật về BVMT của các doanh nghiệp trong KCN chưa được xử lý triệt để và công khai thông tin theo đúng quy định.
- Thứ ba, công tác bảo vệ môi trường trong KCN chưa được quan tâm, chú trọng:
Công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường được thực hiện đúng quy định nhưng chất lượng một số báo cáo chưa cao, còn mang tính hình thức, các giải pháp bảo vệ môi trường còn chung chung, chưa cụ thể, chưa phát huy hiệu quả phòng ngừa ô nhiễm môi trường, dẫn đến một số doanh nghiệp không chịu đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Việc kiểm tra, xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường chưa được qua tâm đúng mức, số lượng các đơn vị được kiểm tra còn ít, chất lượng kiểm tra, xác nhận chưa cao.
- Thứ tư, nguồn nhân lực thực hiện công tác bảo vệ môi trường KCN chưa được đầu tư nhiều:
Trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác xử lý nước thải của KCN còn thiếu chưa được quan tâm đầu tư nhiều. Do nguồn ngân sách hạn chế nên hạ tầng kỹ thuật và các hạng mục công trình bảo vệ môi trường tại các KCN, chưa được xây dựng đồng bộ như hệ thống quan trắc nước thải tự động, hay thiết bị đồng hồ đo lưu lượng đầu vào, các thiết bị phục vụ cho công tác kiểm tra, thanh tra.
Các doanh nghiệp trong KCN đa phần là những doanh nghiệp nhỏ và
vừa, dùng các công nghệ lạc hậu để sản xuất, phát sinh nhiều nước thải. Mặt khác nhà máy xử lý nước thải sơ bộ của các doanh nghiệp chưa được quan tâm đầu tư vận hành hoặc hoạt động không đạt hiệu quả như mong muốn.
- Thứ năm, các chế tài xử phạt vi phạm môi trường:
Chế tài xử lý vi phạm trong công tác quản lý môi trường Khu công nghiệp chưa được quy định rõ ràng. Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chưa quy định trách nhiệm cho Ban Quản lý Khu kinh tế, Khu công nghiệp, Khu chế xuất trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Do đó, phần nào hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN, KKT.
Mức xử phạt hành chính trong công tác quản lý môi trường còn thấp, chưa mang tính răn đe. Mức xử phạt nhiều khi không đảm bảo tính răn đe do lợi nhuận của việc xả thải trực tiếp mang lại còn cao hơn nhiều lần.
2.4.3. Nguyên nhân hạn chế
- Thứ nhất, việc ban hành, hướng dẫn, tổ chức thực hiện VBQPPL
Do hệ thống chính sách pháp luật về quản lý nhà nước về Môi trường KCN còn chưa đầy đủ, chồng chéo. Việc tổ chức, phân công trách nhiệm về Môi trường KCN vẫn còn phân tán và thiếu sự thống nhất gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các vi phạm về quản lý nước thải công nghiệp chưa đủ sức răn đe.
- Thứ hai, hệ thống tổ chức QLNN về nước thải các KCN
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN: BQL KCN tỉnh ĐắkLắk là chủ đầu tư KCN Hòa Phú, đồng thời là chủ kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN thông qua công ty trực thuộc là Công ty Phát triển hạ tầng KCN Hòa Phú. Điều đó không đảm bảo tính khách quan cho công tác quản lý nhất là về vấn đề môi trường. Ngoài ra, lực lượng cán bộ QLNN về nước thải các KCN còn mỏng và chưa chuẩn hóa về trình độ chuyên môn.
- Thứ ba, nguồn lực thực hiện công tác BVMT trong KCN
ĐắkLắk vẫn là một trong những tỉnh tương đối nghèo của cả nước,