mỗi di tích có biện pháp quản lý khác nhau: Với di tích còn được bảo vệ, gìn giữ nguyên vẹn, việc bảo tồn nguyên vẹn yếu tố gốc là nguyên tắc đầu tiên, để giữ lại di tích cùng giá trị phi vật thể của di tích. Với di tích không còn nguyên vẹn, không có cứ liệu lịch sử xác thực để phục hồi nguyên trạng, việc bảo tồn căn cứ vào chức năng, mục đích sử dụng di tích trên tinh thần “sáng tạo truyền thống”. Yêu cầu cũng như mục đích của QLDT là không phải chỉ có gìn giữ di tích nguyên vẹn, trao truyền cho thế hệ sau giá trị nguyên bản của di tích, mà phải khai thác di tích một cách sáng tạo, làm cho công chúng hiểu được và sống cùng di tích; phải sử dụng di tích cho cuộc sống hiện tại, “…cụ thể là phát huy giá trị di tích trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục hiện nay. Việc bảo tồn không mâu thuẫn với phát triển di tích hay khai thác di tích cho sự phát triển” [104; tr.178-185].
Với khung phân tích trên, luận án tiếp cận QLDT ở các mặt: xây dựng và ban hành các chính sách, văn bản pháp quy, chiến lược phát triển, kế hoạch… nguồn lực triển khai và quản lý hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong PTDL. Ngoài ra ở góc độ chủ thể quản lý, luận án còn tiếp cận theo hướng từ dưới lên, vận dụng lý thuyết các bên tham gia, trọng tâm là QLDT có sự tham gia của cộng đồng với mô hình “đồng quản lý” [60; tr.143] làm cơ sở nhấn mạnh sự cân bằng lợi ích của các bên tham gia. Khi người dân và cộng đồng có cuộc sống vật chất phụ thuộc vào sự tồn tại của di tích sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến di tích, cộng đồng là người trực tiếp tạo ra các giá trị của di tích, sống cùng di tích trong một thời gian dài, trải qua nhiều thế hệ, người dân trong cộng đồng là người am hiểu nhất những giá trị của di tích đã kết nối họ gắn bó với cộng đồng, các giá trị đó được truyền từ thế hệ này đến thế hệ sau. Cộng đồng chính là những pho sử sống, những hướng dẫn viên chuyển tải giá trị lịch sử - văn hóa của di tích, quảng bá đến mọi đối tượng trong và ngoài nước. Dựa vào cách tiếp cận của các bên tham gia, tiếp cận dựa vào cộng đồng, từ thực tiễn ở 2 DTNĐC và DTĐK nghiên cứu sinh soi sáng, đánh giá, phân tích vấn đề với phương pháp chủ đạo là khảo sát thực địa, điền dã và tham vấn chuyên gia.
1.2.1.2. Lý thuyết về phát triển du lịch
a) Nguyên tắc về phát triển du lịch
Du lịch có tính lịch sử, xã hội cụ thể, luôn thay đổi phù hợp với thực tiễn, không đơn thuần là hoạt động của khách du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Để gia tăng mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách, văn hóa là yếu tố quan trọng của sản phẩm du lịch, từ đó thúc đẩy PTDL. Theo Lê Ngọc Tòng, để nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam cần dựa trên các nguyên tắc sau: 1) Sự phù hợp với nhu cầu khách: tìm hiểu nhu cầu, xu hướng khách du lịch và nghiên cứu thị trường khách, thị trường mục tiêu, từ đó tiến hành kinh doanh du lịch. 2) Lợi ích kinh tế: bất cứ đầu tư xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch nào cũng phải xét đến những tác động của nó đối với nền kinh tế. 3) Sự đặc sắc: nét đặc trưng của thiên nhiên, văn hóa cộng đồng địa phương là nền tảng tạo sức hấp dẫn của du lịch. 4) Bảo tồn và giữ gìn môi trường, duy trì sự cân bằng sinh thái, nghiêm cấm việc phá hoại cảnh quan môi trường nhất là các tài nguyên du lịch có giá trị đặc biệt [108].
Ngoài ra, để du lịch phát triển bền vững, cần định vị vai trò của 4 chủ thể tạo nên hoạt động du lịch: - Du khách; - Nhân lực du lịch và cộng đồng; - Chính quyền của điểm đến du lịch và - Doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh du lịch cả 4 chủ thể đó phải được vận hành nhịp nhàng không chỉ trong bối cảnh môi trường kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị nhất định mà còn thích ứng với sự biến động của thời cuộc.
b) Phát triển du lịch bền vững ở điểm đến là di tích
- PTDL bền vững xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm “du lịch mềm” đầu những năm 1990, được chú ý gần đây, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất quan niệm về PTDL bền vững. Theo điều 4 Luật Du lịch (2017): Du lịch bền vững là sự PTDL đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai [68]. Du lịch bền vững vừa là quan điểm, vừa là xu thế phát triển của thế giới. PTDL bền vững vừa đáp ứng nhu cầu du khách, bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị nguồn tài nguyên cung ứng cho du lịch, duy trì truyền thống văn hóa, vừa hỗ trợ nâng cao mức sống người dân. Nguyên tắc PTDL bền vững áp dụng cho mọi hình thức du lịch, theo Tổ chức quốc tế Bảo tồn thiên nhiên (IUCN) 1998 có 10 nguyên tắc của PTDL bền vững [97].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa Nhìn Từ Góc Độ Pháp Luật
- Quản lý di tích lịch sử - văn hóa trong phát triển du lịch ở tỉnh Bến Tre - 5
- Lý Thuyết Về Quản Lý Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa
- Mối Quan Hệ Giữa Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa Và Du Lịch
- Tổng Quan Tỉnh Bến Tre - Những Nét Tiêu Biểu Về Văn Hóa Và Du Lịch
- Du Lịch Bến Tre Trong Cụm Phía Đông Đồng Bằng Sông Cửu Long
Xem toàn bộ 298 trang tài liệu này.
PTDL bền vững là một cơ hội tốt cho du lịch di sản phát triển bởi tính đặc
thù của loại hình du lịch này, từ đó có hiệu ứng tích cực cho QLDT. Trong du lịch di sản các thành tố văn hóa và sinh thái cân bằng nhau, nhưng trên thực tế văn hóa vẫn chiếm ưu thế, tên gọi “du lịch di sản” phản ánh ưu thế này. Hiện nay, biến đổi khí hậu, dịch bệnh phi truyền thống là vấn đề “nóng” đang nổi lên, để bảo vệ di tích bên cạnh các yếu tố vật chất kỹ thuật như lâu nay đã có, rất cần quan tâm nghiên cứu và khai thác cách tiếp cận và bảo vệ di tích bằng không gian văn hóa linh thiêng, các yếu tố văn hóa tâm linh… Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn được nghiên cứu sinh xác định đề xuất mô hình hóa vị trí du lịch di sản trong du lịch sinh thái và du lịch văn hóa để làm rõ hơn du lịch di sản - một trụ cột của PTDL bền vững là một trong những nội hàm nghiên cứu chính của luận án:
Từ vị trí di tích trong mối quan hệ của du lịch di sản, cho thấy, việc chỉ đề cao thành tố sinh thái hoặc văn hóa không còn phù hợp, trong bối cảnh mới thành tố văn hóa cần được coi trọng. Với cách tiếp cận này, DTLS-VH Bến Tre là kênh kết nối mang tính đặc hữu khi làm cho điểm du lịch này không lẫn với điểm du lịch khác, là kênh thu hút, giữ chân du khách lưu lại lâu hơn và quan trọng nhất là làm cho du khách quay trở lại. Do đó bên cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, văn hóa nói chung, nhà tổ chức hoạt động du lịch cần quan tâm bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Du lịch ở các khu di tích sẽ làm giàu bản sắc và truyền thống dân tộc, làm đẹp cảnh quan môi trường, ngăn chặn tiêu cực xâm nhập du lịch và đời sống cộng đồng.
Tùy vào quy mô, hình thức, nội dung, địa điểm, thời điểm, đối tượng, du lịch di sản sẽ có các loại hình khác nhau tại các điểm đến là di tích nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và trải nghiệm của du khách. Hoạt động du lịch ở các điểm di tích chủ yếu gồm: Trưng bày hiện vật, cung cấp thông tin, tổ chức các hoạt động mô phỏng, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội, bán hàng lưu niệm... khi tổ chức hoạt động du lịch ở các khu di tích, cần xem xét các yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất, không gian di tích, thời gian, nhân lực, quy trình công nghệ, nguyên liệu, sản phẩm của các nhà cung cấp để bảo đảm các hoạt động diễn ra theo hướng phát triển bền vững. Đảm bảo mọi hoạt động du lịch ở các điểm di tích, dù thực hiện bởi cơ quan nhà nước hay tư nhân đều phải tôn trọng, bảo vệ di tích cũng như quyền, nguyện vọng và mong muốn của cộng đồng, cá nhân sở hữu di tích và các bên liên quan [23].
Du lịch có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của di tích, Tuy nhiên, mặt trái của du lịch, PTDL bền vững ở các khu di tích chỉ được đảm bảo trên nền tảng xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa PTDL và QLDT, ở đây không đơn giản là mối quan hệ cung - cầu hay sản xuất - tiêu thụ [137]. Mối quan hệ này phức tạp hơn nhiều được minh họa bằng sơ đồ 1.2 bởi DTLS-VH là tài sản rất quan trọng và không thể tái tạo, vì vậy cần quan tâm, cân nhắc hơn so với các tài sản khác.
1.2.2. Khung khái niệm
1.2.2.1. Nhóm khái niệm về di tích lịch sử - văn hóa
- Di tích lịch sử - văn hóa chứa đựng truyền thống tốt đẹp, tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật của mỗi địa phương, quốc gia. DTLS- VH là tài nguyên nhân văn quý giá hình thành, bảo tồn, tôn tạo qua nhiều thế hệ. DTLS-VH là khách thể của hoạt động du lịch. Mỗi nước trên thế giới có quy định riêng về DTLS-VH, xem DTLS-VH là tài nguyên du lịch nhân văn với các giá trị vật thể và phi vật thể. Theo Luật Di sản văn hoá sửa đổi (2009), DTLS-VH là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. DTLS-VH cần có một trong các tiêu chí sau: 1) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hoá tiêu biểu của quốc gia, địa phương; 2) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển quốc gia, địa phương qua các thời kỳ lịch sử; 3) Địa chỉ khảo cổ học có giá trị tiêu biểu; 4) Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc các giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật [67]. Khái niệm DTLS-VH nêu trên được nghiên cứu sinh sử dụng khi nghiên cứu luận án, tuy nhiên khía cạnh kinh tế của di tích chưa được đề cập, do đó yêu cầu đặt ra là cần phải vận dụng bổ sung nội hàm giá trị DTLS-VH, xem xét di tích trong mối tương quan kinh tế - văn hóa. Theo tiêu chuẩn xếp hạng di tích Việt Nam có: Di tích cấp tỉnh, Di tích quốc gia, Di tích quốc gia đặc biệt, việc nghiên cứu giá trị di tích tạo hiệu ứng thực tế cho việc xếp hạng này vì vậy rất cần được coi trọng để tránh tình trạng “hữu danh vô thực”…
- Di tích quốc gia đặc biệt; Luật Di sản văn hóa sửa đổi (2009), theo Điều 29, chương IV: là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định xếp hạng trên cơ sở các di tích đã được Bộ VHTTDL xếp hạng di tích quốc gia. Di tích quốc gia đặc biệt có giá trị đặc biệt tiêu biểu về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, dấu ấn cội nguồn, bản sắc dân tộc Việt Nam. Đối chiếu với cách phân loại di tích, 2 Di tích được khảo sát trong luận án thuộc loại hình di tích
lịch sử, là công trình xây dựng, địa điểm về sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc, là nơi tôn vinh danh nhân văn hóa có ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử dân tộc.
- Quản lý DTLS-VH là hoạt động của các chủ thể quản lý bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng và cá nhân có thẩm quyền trong việc sử dụng quyền lực nhà nước để xây dựng, ban hành pháp luật. Đồng thời sử dụng phương tiện pháp luật để quản lý, tuyên truyền giáo dục, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật; xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về DTLS-VH nói riêng, DSVH nói chung để bảo vệ, phát huy một cách tối đa giá trị thực sự của di tích. Trong nội hàm nghiên cứu của luận án, QLDT có tiêu điểm là Bảo tồn di tích, bao gồm: nghiên cứu, quản lý, bảo vệ, bảo quản, tu bổ, phục hồi nhằm bảo đảm tính toàn vẹn, tính xác thực và sự tồn tại bền vững của di tích để phát huy giá trị. Đảm bảo thực hiện các hoạt động đó, cần nghiên cứu nhận diện di tích toàn diện, đồng thời phải giữ gìn di tích bằng nhiều biện pháp khác nhau để không bị xâm hại, hủy hoại và làm cho di tích luôn toàn vẹn bằng việc tôn tạo, phục hồi di tích, tất cả các hoạt động trên nhằm Phát huy giá trị di tích, làm cho di tích sống cùng thời đại.
- Quản lý di tích quốc gia đặc biệt; Di tích quốc gia đặc biệt là một bộ phận của hệ thống di tích ở Việt Nam, nội dung QLDT quốc gia đặc biệt vì vậy bám sát và dựa trên nội dung cơ bản QLDT. Di tích quốc gia đặc biệt là những chứng tích xác thực, phản ánh sinh động lịch sử lâu đời và truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông, đóng vai trò hết sức quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu tiềm năng di tích, thực trạng QLDT hiện nay, định hướng PTDL của Bến Tre, luận án tập trung phân tích, chỉ ra điểm mạnh, hạn chế cũng như thuận lợi, khó khăn và thách thức khi QLDT gắn với PTDL trước hết ở 2 di tích quốc gia đặc biệt. Đây là cơ sở để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy giá trị DTLS-VH Bến Tre – nội hàm nghiên cứu chính khi nói đến QLDT trong luận án.
1.2.2.2. Nhóm khái niệm về Du lịch
- Du lịch là một sở thích, hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người, là một nhu cầu tất yếu, không thể thiếu trong cuộc sống. Ở góc độ kinh tế, du lịch là một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước, ở một số nước du lịch dẫn đầu thu hút
ngoại tệ, tạo việc làm và là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Du lịch không chỉ là hiện tượng xã hội hay văn hóa mà liên quan mật thiết đến kinh tế.
Ở Việt Nam, từ khi mới hình thành du lịch được xếp vào ngành thương mại, sau đó chuyển về ngành Văn hóa và cách nay 4 năm, du lịch có mục tiêu phấn đấu là ngành kinh tế mũi nhọn. Luật Du lịch (2005) xác định “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [68]. Luật Du lịch (2017) đã sửa đổi theo hướng xây dựng du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đưa ra quy định “phát triển sản phẩm du lịch”. So với Luật du lịch (2005) đây là một bước tiến quan trọng, lần đầu tiên luật hóa “phát triển sản phẩm du lịch”, tuy nhiên mới dừng lại ở nhận thức, sự cần thiết và khuyến khích, chưa làm rõ nội hàm của vấn đề. Do đó, thị trường du lịch, xu hướng và thị hiếu khách du lịch [19; tr.46] rất cần được nghiên cứu nhất là khi QLDT trong PTDL.
- Loại hình du lịch, du lịch phát triển dẫn đến hình thành các loại hình du lịch. “Loại hình du lịch là các hình thức du lịch được tổ chức nhằm thoả mãn mục đích đi du lịch của du khách” [68]. Theo UNWTO, các loại hình du lịch được xác định căn cứ từ mục đích cơ bản của thị trường khách được mô hình hóa theo sơ đồ:
Trong giới hạn của luận án, nghiên cứu sinh quan tâm nhiều hơn đến Du lịch văn hóa, là những chuyến tham quan bởi người từ bên ngoài cộng đồng sở tại, được thúc đẩy bởi một phần hoặc toàn bộ mối quan tâm đến lịch sử, nghệ thuật, khoa học hoặc đời sống văn hóa, di sản của một cộng đồng, một vùng, nhóm người hoặc một thể chế [133; tr.361]. Trong du lịch văn hóa Bến Tre, nghiên cứu sinh đặc biệt quan tâm đến Du lịch di sản, Du lịch tâm linh, Du lịch học tập bên cạnh Du lịch sinh thái, Du lịch chữa bệnh, Du lịch nông nghiệp mà hiện nay Bến Tre đang mong muốn phát triển và giàu tiềm năng, có vai trò chi phối các loại hình du lịch khác nếu được quan tâm kết nối và khai thác một cách hợp lý ở các di tích như DTNĐC, DTĐK, Khu lưu niệm nữ tướng Nguyễn Thị Định, Sân chim Vàm Hồ, cồn Phụng... sẽ tạo ra đòn bẩy PTDL.
- Du lịch di sản, là một thành tố của du lịch văn hóa, là loại hình du lịch có động lực chính ở du khách khi tham quan điểm đến di sản theo quan niệm về di sản của chính du khách [133; tr.1048]. Định nghĩa này cho thấy thuộc tính của điểm tham quan (di tích) là động lực đưa du khách đến di tích. Du lịch di sản là việc di chuyển ra khỏi nơi cư trú thường xuyên trong thời gian rãnh để thưởng thức các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn và thỏa mãn nhu cầu văn hóa vật chất và tinh thần ở không gian di sản. Ở luận án này, du lịch di sản là hoạt động du lịch ở các điểm di tích nhưng có hàm nghĩa cả 2 giá trị vật thể và phi vật thể của di tích.
1.2.3. Khung pháp lý
Cơ sở pháp lý được xác định trong quá trình nghiên cứu luận án là căn cứ vào quy định của pháp luật Việt Nam, các quy ước, điều ước quốc tế về Di sản văn hóa, Du lịch để đưa ra những nguyên tắc cơ bản QLDT Bến Tre trong PTDL cần tuân thủ như sau: 1) Khai thác trung thực, khách quan đúng với những giá trị vốn có của di tích; 2) Đảm bảo sự phát triển bền vững: không làm tổn hại đến sự tồn tại của di tích, phải cân bằng giữa bảo tồn và phát triển; 3) Khai thác, phát huy giá trị hợp lý và hiệu quả cao nhất với nhiều hình thức QLDT sáng tạo bên cạnh bảo tồn; 4) Nâng cao nhận thức cộng đồng trong bảo tồn di tích; 5) Phát huy giá trị di tích trong