thì cũng sẽ không tạo được lợi thế tại khu vực biên giới. Khu vực biên giới không được mở cửa thì những điều kiện thuận lợi của khu vực không được chuyển hóa thành động lực cho sự phát triển kinh tế của hai bên. Nếu được mở cửa thì những điều kiện địa phương được chuyển hóa thành ưu thế khu vực, tạo không gian cho thị trường mang tính quốc tế. Điều đó tạo điều kiện khai thác các ưu thế địa phương khác hướng đến thực hiện hoạt động trao đổi buôn bán.
- Quan hệ thương mại qua biên giới có tính chất bổ sung:
+ Những yếu tố sản xuất về sức lao động, tài nguyên, vốn, kỹ thuật giữa hai nước láng giềng đều có ưu thế thể hiện ở mỗi mặt, thông qua hoạt động trao đổi, buôn bán thực hiện lợi ích của mỗi mặt đó.
+ Tính bổ sung ưu thế cho nhau: Là yếu tố chủ yếu làm cho quan hệ thương mại qua biên giới phát triển.
- Quan hệ thương mại qua biên giới là quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế quốc gia có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Đó là nguyên tắc cơ bản và là tiền để phát triển quan hệ thương mại qua biên giới.
- Trong quá trình thực hiện quan hệ thương mại qua biên giới, ngoài trao đổi hàng hóa ra còn tạo điều kiện để trao đổi các yếu tố sản xuất như sức lao động, tư bản kỹ thuật.
- Trong quan hệ thương mại qua biên giới, mặc dù phải tuân thủ nguyên tắc hai bên cùng có lợi, nhưng đây là hợp tác và cạnh tranh giữa hai bên hoặc nhiều bên, trong hợp tác có cạnh tranh, trong cạnh tranh có hợp tác. Hợp tác và cạnh tranh tồn tại song song là đặc trưng chủ yếu trong thương mại quốc tế, đồng thời cũng là đặc trưng cơ bản của thương mại qua biên giới.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc - Thực tế ở Lạng Sơn - 1
- Quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc - Thực tế ở Lạng Sơn - 2
- Chính Sách Của Việt Nam Về Quan Hệ Thương Mại Cửa Khẩu Biên Giới
- Tổng Quan Về Quan Hệ Thương Mại Qua Biên Giới Giữa Việt Nam Và Trung Quốc
- Tỷ Lệ Kim Ngạch Xnk Đường Biên Của Các Tỉnh Biên Giới Phía Bắc So Với Kim Ngạch Xnk Việt Nam - Trung Quốc Giai Đoạn 1991-2009
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Rõ ràng quan hệ thương mại qua biên giới vừa mang tính chất chung của thương mại quốc tế, và nó còn có đặc trưng khác so với thương mại quốc tế. Quan hệ thương mại qua biên giới là hình thức đặc thù của thương mại quốc tế.
1.1.4. Hình thức của quan hệ thương mại qua biên giới
Có hai hình thức thương mại qua biên giới:
Thứ nhất, thương mại tiểu ngạch biên giới (thường gọi là chợ biên giới), chỉ thực hiện trong một phạm vi nhất định tại khu vực nối liền giữa hai nước, là phương tiện để phát triển đời sống của cư dân hai bên biên giới. Cư dân hai bên biên giới chỉ hoạt động ở thị trường đã chỉ định và địa điểm mở cửa mà Nhà nước quy định, không được mua bán, giao lưu hàng hóa vượt quá hạn ngạch đã quy định. Hai bên tiến hành hoạt động thương mại tiểu ngạch nói chung đều hưởng ưu đãi về miễn giảm thuế và đơn giản hóa thủ tục hải quan. Hoạt động trao đổi, buôn bán qua biên giới ở khu vực biên giới của mỗi nước đều được Chính phủ nước đó duyệt và có phê quy chế riêng.
Thứ hai, địa phương khu vực biên giới hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hóa ở nơi nối liền giữa hai nước đã được Chính phủ phê chuẩn. Doanh nghiệp địa phương được chỉ định tiến hành các hoạt động thương mại ở khu vực biên giới, hàng hóa được sản xuất tại khu vực được trao đổi tại nơi nối liền hai nước. Đây là một hình thái liên kết kinh tế thương mại giữa hai nước láng giềng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới, mở rộng lưu thông hàng hóa, phát triển quan hệ với bên ngoài, giao lưu kinh tế kỹ thuật trong nước với nước ngoài, biên giới và nội địa, mở ra con đường và thị trường phát triển ngoại thương mới.
1.2. Vai trò của quan hệ thương mại qua biên giới
Về mặt lý thuyết, nhu cầu trao đổi hàng hóa xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất khép kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia. Ngoại thương hay chính là thương mại quốc tế trong đó bao gồm cả thương mại qua biên giới xuất
hiện và trở nên không thể thiếu được đối với nền kinh tế của các nước tư bản thời đó và đối với tất cả các quốc gia trong thời đại hiện nay. Vai trò to lớn này đã được một số nhà kinh tế học điển hình thuộc các trường phái từ cổ điển đến hiện đại đều đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của mình. Các lý thuyết đã chỉ ra rằng thương mại quốc tế là tất yếu khách quan tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Hoạt động thương mại qua biên giới giúp các nước đẩy mạnh hơn nữa hoạt động sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa của mình. Thương mại qua biên giới còn mở rộng phạm vi trao đổi hàng hóa cho các nước đó, giúp tăng trưởng nền kinh tế quốc gia, giảm bớt rủi ro khi nền kinh tế của một số đối tác thương mại lớn bị suy yếu. Ngoài việc giao thương, trao đổi hàng hóa qua biên giới còn giúp các nước đang phát triển có cơ hội tiếp thu những công nghệ hiện đại của các nước khác thông qua hình thức chuyển giao công nghệ hoặc đầu tư trực tiếp, gián tiếp.
1.2.1. Vai trò đối với Trung Quốc
Phát triển quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, trước tiên, nó sẽ làm cho các tỉnh có đường biên giới giàu lên. Nhờ thu thuế biên mậu, các địa phương dọc biên giới đã tăng thu nhập tài chính lên rất nhiều. Cư dân hai bên biên giới có thể trao đổi những sản phẩm chất lượng thấp không thể xuất sang thị trường quốc tế khác
Việt Nam không những là thị trường có 86 triệu dân mà còn là cầu nối với cả thị trường Đông Nam Á về đường bộ cũng như đường biển. Trung Quốc hiện có chiến lược phát triển kinh tế vùng “Đại Tây Nam” và ý tưởng hợp tác kinh tế quanh vùng “Vịnh Bắc Bộ”, do vậy Việt Nam là một đối tác giao lưu hợp tác kinh tế không thể thiếu được.
Phát triển quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, còn làm cho nhiều lĩnh vực khác phát triển cụ thể như lĩnh vực du lịch, và các ngành bổ trợ cho lĩnh vực này cũng phát triển từ đó đem lại lợi ích kinh tế cao.
Phát triển quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm không chỉ ở các tỉnh biên giới mà cả ở các tỉnh kế cận.
1.2.2. Vai trò đối với Việt Nam
Trung Quốc là nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với Việt Nam, có nền kinh tế quy mô lớn tăng trưởng mạnh. Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn tới Việt Nam thông qua hoạt động thương mại qua biên giới hay còn gọi là biên mậu giữa hai nước. Cụ thể:
* Thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn
Từ khi chính thức bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991 đến nay, việc giao lưu kinh tế trong nông nghiệp đã phát triển và đạt một số thành quả: tăng trao đổi hàng hóa nông lâm hải sản với Trung Quốc, vì đây là thị trường tiêu thụ nhiều sản phẩm nông lâm hải sản… Giá cả trên thị trường này tuy không ổn định nhưng nhiều khi và nhiều sản phẩm có giá cao hơn thị trường quốc tế khác chẳng hạn như nguyên liệu cao su. Trung Quốc là thị trường khá dễ tính, không đòi hỏi chất lượng quá cao nên có tác dụng quan trọng trong sản xuất nông lâm nghiệp và xuất khẩu ở phía ta. Chúng ta đã nhập được nhiều thiết bị, vật tư, giống cây trồng vật nuôi cần thiết cho nông nghiệp, một số sản phẩm có hiệu quả và năng suất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và trình độ sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Hơn thế nữa phần lớn việc trao đổi này không đòi hỏi ngoại tệ mạnh, thời gian mua bán nhanh chóng, thuận tiện cho việc đưa sản phẩm vào sử dụng.
* Thúc đẩy phát triển công nghiệp và xây dựng
Trong cơ cấu hàng hóa trao đổi với Trung Quốc thì sản phẩm về máy móc, thiết bị, hóa chất, các phương tiện vận tải, công nghệ phục vụ cho một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng… nhập khẩu từ Trung Quốc
chiếm tới 30% giá trị hàng hóa nhập khẩu [16, tr.10 ]. Nhóm hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu này phong phú, đa dạng, có quy mô khác nhau, từ một vài bộ đến các lô hàng loạt máy móc, thiết bị, từ phụ tùng lẻ đến thiết bị toàn bộ. Những nhóm hàng có quy mô lớn trong thời gian vừa qua là: Máy móc nông nghiệp và chế biến lâm sản, nông sản, thiết bị cho sản xuất xi măng lò đứng và cho máy móc ngành dệt, thiết bị máy móc sản xuất phân bón và các loại máy phát điện cỡ nhỏ. Tuy nhiên việc nhập các thiết bị máy móc công nghiệp này đã gây ra một hiện tượng đó là những thiết bị trên chưa phải là tiên tiến, do vậy việc sử dụng chỉ mang tính chất ngắn hạn. Thực tế mà nói thì trình độ áp dụng công nghệ của chúng ta chưa cao vì vậy mặc dù chúng ta nhập máy móc thiết bị của Trung Quốc công nghệ chưa phải là mới nhất và tiên tiến nhất nhưng nó phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Ngoài ra việc trao đổi hàng hóa công nghiệp còn tạo ra một tác động tích cực đó là tạo áp lực cạnh tranh đối với các ngành công nghiệp trong nước. Khi hàng hóa của Trung Quốc vào Việt Nam, vừa chất lượng, vừa tốt, vừa rẻ, hợp lý với người tiêu dùng, trong khi đó hàng hóa Việt Nam tính tổng lợi ích cũng chưa thể bằng hàng Trung Quốc được. Vì vậy để bán được hàng ngay trong nước mình thì buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải sản xuất hàng hóa, chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn, hay nói cách khác nó đã tạo áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh.
* Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng vùng biên giới
Giao thông vận tải ở các tỉnh phía Bắc chủ yếu dựa vào đường bộ, đặc biệt là các tỉnh phía Tây Bắc. Tuy nhiên, trước đây hệ thống giao thông của các tỉnh này chất lượng rất thấp. Từ ngày có chính sách mở cửa biên giới, Bộ giao thông vận tải đã phối hợp cùng các địa phương, cải tạo nâng cấp nhiều đoạn đường, tuyến đường nối tới các cửa khẩu chính thức như tuyến đường Lộc Bình - Chi Ma dài 18km, đoạn nối quốc lộ 4A tới cửa khẩu Tân Thanh…Nhìn chung, các tuyến đường ra cửa khẩu đến các xã biên giới tuy giao thông đi lại còn nhiều khó khăn,
song đã được cải thiện một bước, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh biên giới phía Bắc.
Với sự nỗ lực của ngành đường sắt cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc, vận tải liên vận hàng hóa và hành khách bằng đường sắt, những năm qua đã thông qua 2 tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh và Hà Nội – Đồng Đăng – Bằng Tường. Năng lực vận tải đường sắt chưa được phát huy đáng kể do vấn đề giá cả, thủ tục giao nhận hàng hóa, thủ tục xuất nhập cảnh chưa được cải tiến cho phù hợp hơn và hấp dẫn hơn nhưng rõ ràng có thể khẳng định rằng nhu cầu vận tải đường sắt liên vận quốc tế là rất lớn..
Nếu khai thác được nhu cầu đó, lại xây dựng được các tuyến đường sắt chạy từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc, đến cảng Hải Phòng của Việt Nam thì cả hai bên đều cùng có lợi về nhiều mặt. Đường bộ, đường biển do chúng ta đã thực hiện được hiệp định về thủ tục qua lại, điểm đậu và thủ tục giao nhận hàng hóa nên đã phát huy được tốt hơn các khả năng vận tải.
Về thông tin liên lạc, ngành bưu chính viễn thông đã phát triển nhanh nhờ một phần tác động của mở rộng buôn bán biên giới và ngược lại, ngành bưu chính viễn thông đã góp phần tích cực thúc đẩy giao lưu kinh tế và làm sôi động thêm thị trường vùng biên giới phía Bắc.
* Về thu ngân sách trên địa bàn
Từ sau khi hai nước Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, lượng hàng hóa trao đổi giữa hai nước ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng. Giá trị thuế xuất nhập khẩu ngày càng tăng qua các năm, cụ thể như là trong tổng số thu ngân sách các tỉnh biên giới phía Bắc, tỷ trọng của thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao, điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc mua bán trao đổi hàng hóa giữa hai nước. Năm 1991 tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu chiếm 30,30% tổng thu ngân sách, năm 1994 đã lên 55,06% và những năm qua giữ được mức bình quân 46,84%, [8, tr.156 - 159]. Thuế xuất nhập khẩu qua
biên giới Việt – Trung hàng năm đều có đặc điểm là thu qua buôn bán tiểu ngạch đều cao hơn thu qua buôn bán chính ngạch, nhịp độ tăng trưởng của hình thức buôn bán tiểu ngạch tăng trưởng tốt hơn so với hình thức buôn bán chính ngạch.
Dưới tác động của buôn bán biên giới, hoạt động của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tăng lên, thu ngân sách của các tỉnh phía Bắc tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là các tỉnh có cửa khẩu, có khối lượng buôn bán thông qua lớn như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai. Một số tỉnh từ chỗ trước kia chưa cân đối được ngân sách thu nay đủ bù chi và còn nộp được cho ngân sách Nhà nước phần đóng góp của tỉnh mình, tuy còn nhỏ nhưng rất ý nghĩa.
Nhờ nguồn thu ngân sách tăng, phần chi ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và văn hóa xã hội, y tế, giáo dục các tỉnh biên giới phía Bắc cũng tăng lên nhanh chóng, góp phần cải thiện đáng kể bộ mặt kinh tế - xã hội khu vực này.
* Đời sống vật chất và tinh thần nhân dân các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc được cải thiện rõ rệt
Thành quả về kinh tế - xã hội mà chúng ta đạt được trong thời gian qua bắt nguồn chủ yếu từ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam và sự nỗ lực của toàn dân. Song đối với các tỉnh biên giới phía Bắc, những thành tựu đó có sự đóng góp đáng kể của giao lưu buôn bán qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc. So sánh với các tỉnh miền núi không có biên giới, hoặc so sánh giữa các tỉnh biên giới phía Bắc với nhau, chúng ta thấy các tỉnh có khối lượng buôn bán qua biên giới lớn hơn và đáng kể như là Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh hơn, diện mạo các tỉnh này cũng sáng sủa hơn.
Buôn bán qua biên giới đã góp phần làm giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, tăng tỷ lệ trung bình và giàu có ở các thị xã, thị trấn, khu vực cửa khẩu. Đời sống một bộ phận nhân dân được cải thiện một cách rõ rệt. Nhiều tỉnh vùng biên giới đang
hình thành những thị trấn, trung tâm cụm xã như những điểm giao lưu kinh tế - xã hội. Hệ thống chợ vùng biên phát triển phong phú, đa dạng, cơ sở hạ tầng được nâng cấp sửa chữa, đời sống văn hóa, tinh thần được cải thiện, bộ mặt nông thôn miền núi được đổi mới.
1.3.Chính sách biên mậu của hai nước Việt Nam và Trung Quốc
Chính sách biên mậu của từng quốc gia là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới quan hệ biên mậu với các nước láng giềng.
1.3.1. Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Chính sách quản lý thương mại biên giới của Trung Quốc đã được quy định tại thông báo số 2 năm 1996 của Quốc vụ viện Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến thương mại biên giới, nội dung chủ yếu của chính sách:
- Tăng cường tính tự chủ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp biên mậu được khuyến khích mạnh buôn bán biên mậu.
- Tăng cường tự chủ cho các tỉnh biên giới thông qua quyền tự trị dân tộc. Các tỉnh biên giới được khẳng định quyền độc lập buôn bán của mình.
Trừ các sản phẩm điện tử, thuốc lá, mỹ phẩm, rượu, chính sách thuế ưu đãi đối với các công ty biên mậu áp dụng từ tháng 4/1991 giảm 50% thuế cho các hàng hóa buôn bán qua biên giới. Ngoài ra, khi có hàng hóa nhập khẩu qua biên giới, nếu đem bán lại cho các công ty nội địa được áp dụng chế độ khấu trừ thuế. Việc buôn bán biên mậu được khuyến khích nhiều hơn thông qua Thông tư 02 của Quốc Vụ viện Trung Quốc ban hành ngày 03/01/1996.
- Với một hệ thống nhất quán, để thực hiện thành công chiến lược “biên giới mềm”, mọi hoạt động thương mại biên giới được chỉ đạo tập trung, thống nhất vào một cơ quan đầu mối là “Ban biên mậu” có đầy đủ quyền hạn để quản lý, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động có liên quan đến biên giới, buôn bán và qua lại biên giới, kể cả với việc Marketing, sắp xếp đầu mối kinh doanh, thu thuế…Đối