- Đưa ra một số gợi ý giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển hiệu quả hơn nữa mối quan hệ này trong thời gian tiếp theo.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng, biểu đồ, đồ thị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: “Cơ sở cho sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc” Chương này sẽ hệ thống hoá cơ sở và các yếu tố tác động đến sự phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam - Hàn Quốc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Chương 2 “Thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc từ năm 1992 đến nay” tập trung làm rõ những đặc điểm và thực trạng cơ bản của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn từ 1992 nay trong các lĩnh vực trao đổi hàng hoá, đầu tư… đưa ra đánh giá chung về sự phát triển của mối quan hệ này.
Chương 3 “Triển vọng và giải pháp phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc” đưa ra dự báo về xu hướng phát triển của mối quan hệ này, từ đó đề ra các giải pháp chung và cụ thể nhằm tăng cường và mở rộng quan hệ kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian tới.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
Từ lý thuyết và thực tiễn về kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế có thể thấy rằng để phát triển quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, bên cạnh yếu tố nền tảng là sự tồn tại của lợi thế so sánh giữa họ, còn phải có một số yếu tố khác nữa. Chúng có thể mang tính khách quan (quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ), và có thể mang tính chủ quan (chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế của các nước nói chung). Sự phát triển nhanh chóng quan hệ thương mại, đầu tư nói riêng và quan hệ kinh tế nói chung giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong suốt hai thập kỷ qua đã góp phần khẳng định cho nhận định trên.
Trên thực tế, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc được bắt đầu từ đầu thập kỷ 1980, chủ yếu thông qua trao đổi hàng hoá một cách tự phát. Vào thời điểm này, ở Hàn Quốc đã xuất hiện những nhu cầu mới, đòi hỏi chính phủ phải cải cách nền kinh tế theo hướng mở cửa và tăng cường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Còn ở Việt Nam, công cuộc cải cách nền kinh tế sang kinh tế thị trường cũng được bắt đầu vào thời gian này, và được tăng cường sau khi khối XHCN sụp đổ vào đầu những năm 1990. Thực tế khách quan này đã tạo đà cho việc xích lại gần nhau hơn giữa hai nước. Bên cạnh đó, dựa trên các lợi thế so sánh, chính phủ hai nước đã có những bước đi thích đáng nhằm xây dựng môi trường pháp lý cho sự phát triển vững chắc quan hệ kinh tế song phương. Hơn nữa, yêu cầu đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế đã buộc Việt Nam và Hàn Quốc phải có những điều chỉnh trong quan điểm, định hướng chính sách và chiến lược phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình mới. Những thay đổi này đã có tác động tích cực lên sự phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nước thời gian qua. Vậy, cơ sở nào chi phối sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc và các tác động nào đã ảnh hưởng và tác động đến mối quan hệ này trong thời gian qua? đây là những câu hỏi cần phải giải đáp trong
chương này.
1.1. SỰ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ KHU VỰC VÀ VIỆT NAM
- HÀN QUỐC
Mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đã được phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá được tăng cường mạnh mẽ từ cuối thập kỷ 1980. Căn cứ vào các số liệu ở bảng 1.1, có thể thấy rằng từ thời điểm đó, các nước Châu Á - Thái Bình Dương đã gia tăng đáng kể mức độ liên kết vào nền kinh tế toàn cầu. Các nước này đều đã rất coi trọng việc mở rộng thương mại nội bộ và với các nước khác nhằm thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhất là FDI. Đồng thời đây cũng là thời gian liên kết kinh tế khu vực được tăng cường thông qua các hoạt động đa dạng của ASEAN và APEC. Trong đó, các nước trong khu vực đã giành sự quan tâm đáng kể cho việc mở rộng trao đổi buôn bán thương mại. Điều này được minh chứng qua các số liệu ở Bảng 1.2. Trong giai đoạn này, tỷ trọng của xuất khẩu nội vùng trong tổng xuất khẩu của nhiều nước Đông Á đã gia tăng mạnh, trong đó Hàn Quốc và Việt Nam đã tăng gấp hơn hai lần, tương ứng từ 5,8% và 0,4% lên 13,3% và 1%.
Bảng 1.1 Liên kết với nền kinh tế toàn cầu
Trao đổi hàng hoá (% so với GDP) | Trao đổi hàng hoá (% so với GDP hàng hoá) | Tổng dòng vốn vào tư nhân (% so với GDP) | Tổng FDI (% so với GDP) | |||||
1990 | 2000 | 1990 | 2000 | 1990 | 2000 | 1990 | 2000 | |
Hàn Quốc | 53,4 | 72,8 | 72,8 | 153,8 | 6,2 | 11,5 | 0,7 | 3,2 |
Việt Nam | 79,7 | 96,0 | 96,0 | - | 10,8 | - | 4,1 | |
Thái Lan | 66,1 | 107,2 | 107,2 | 211,4 | 13,5 | 11,3 | 3,0 | 2,8 |
Indonexia | 41,5 | 62,4 | 62,4 | 97,2 | 4,1 | 8,5 | 1,0 | 4,2 |
Trung Quốc | 32,5 | 43,9 | 43,9 | 65,8 | 2,5 | 12,7 | 1,2 | 4,3 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến nay - 1
- Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến nay - 3
- Kim Ngạch Xuất Nhập Khẩu Việt Nam-Hàn Quốc Giai Đoạn 1992-2006
- Kim Ngạch Nhập Khẩu Của Các Nước Asean Từ Hàn Quốc
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Nguồn: World Development Indicators 2002, WB, p. 332-334.
Cũng vào những năm cuối thập kỷ 1980, đã có nhiều thay đổi xuất hiện trong nội bộ các nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc, khiến chính phủ hai nước phải quan
tâm hơn đến việc mở rộng quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ở Hàn Quốc lúc đó, vai trò của tiêu dùng trong nước như là động lực về nhu cầu cho tăng trưởng kinh tế đã giảm dần và thay vào đó là sự gia tăng vai trò của xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài. Có một số nguyên nhân dẫn đến việc Hàn Quốc tăng cường mở rộng xuất khẩu và đầu tư ra bên ngoài vào thời điểm này. Đó là:
a) Sau nhiều năm đạt tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, cán cân thanh toán đã đạt thặng dư 4,2 tỷ USD vào năm 1986, nguồn dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc đã gia tăng đáng kể - từ 6,57 tỷ USD năm 1980 lên 14,8 tỷ năm 1990 và 32,7 tỷ USD năm 1995;
Bảng 1.2 Tỷ trọng của thương mại nội vùng trong tổng xuất khẩu của các nước Đông Á 1985, 1995 và 2001
Giá trị xuất khẩu nội vùng (triệu USD) | Tỷ trọng của xuất khẩu nội vùng (%) | Tỷ trọng trong GDP toàn vùng | |||||
1985 | 1995 | 2001 | 1985 | 1995 | 2001 | 2001 | |
Brunei | 922 | 951 | 1.192 | 2,1 | 0,3 | 0,3 | 0,4 |
Campuchia | 3 | 276 | 182 | 6,1 | 0,1 | ||
Trung Quốc | 10.867 | 90.799 | 127.796 | 24,7 | 28,9 | 30,6 | 43,1 |
HongKong | 6.637 | 20.016 | 26.981 | 15,1 | 6,4 | 5 | 7,5 |
Indonexia | 1.953 | 12.008 | 17.155 | 4,4 | 3,8 | 4,1 | 4,2 |
Hàn Quốc | 2.559 | 40.346 | 55.748 | 5,8 | 12,8 | 13,3 | 14,4 |
Lào | 17 | 199 | 220 | 0,1 | 0,1 | 0,1 | |
Malaysia | 6.844 | 37.642 | 46.759 | 15,5 | 12 | 11,2 | 3,3 |
Mông Cổ | 4 | 111 | 242 | 0 | 0 | 0,1 | 0,1 |
Philippin | 1.071 | 4.645 | 14.736 | 2,4 | 1,5 | 3,5 | 2,9 |
Singapore | 6.032 | 38.979 | 41.806 | 13,7 | 12,4 | 10 | 3,8 |
Đài Loan | 4.994 | 49.959 | 62.477 | 11,3 | 15,6 | 14,9 | 13,9 |
Thái Lan | 1.982 | 17.548 | 24.359 | 4,5 | 5,6 | 5,8 | 5 |
Việt Nam | 182 | 1.916 | 4.354 | 0,4 | 0,6 | 1 | 1,2 |
44.067 | 314.496 | 418.007 | 100 | 100 | 100 | 100 |
Tổng số
Nguồn: IMF, Direction of Trade Statistics.
b) Trong điều kiện lao động và vốn đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng GNP so với việc tăng năng suất, tiền lương thực tế ở Hàn Quốc luôn gia tăng với tốc độ từ 6-8% suốt từ đầu thập kỷ 1980 đã làm cho khả năng cạnh tranh về giá của hàng hoá xuất khẩu của nước này bị giảm dần. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn lao động rẻ hơn ở các nước khác.
c) Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia đã đạt mức khá cao (trên 30%) và đã vượt quá tỷ lệ đầu tư. Nền kinh tế Hàn Quốc được coi là nền kinh tế tự cung tự cấp.
d) Từ những năm đầu 1990, nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu bước vào một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ của dân chủ hoá, tư nhân hoá và tự do hoá mạnh mẽ.
Đối tượng đầu tiên được chính phủ Hàn Quốc quan tâm đến khi tăng cường thực hiện chiến lược toàn cầu hoá của mình là các nước Đông Nam Á khu vực dân cư đông đúc, giá lao động lại rẻ, giàu tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển kinh tế lại lạc hậu hơn và đang kiên trì theo đuổi đường lối kinh tế hướng ngoại.
Vào thời gian trên, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế. Quá trình này được tăng cường rõ rệt sau năm 1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã. Tinh thần quyết tâm đổi mới sang nền kinh tế thị trường, sự chuyển hướng trong chính sách kinh tế đối ngoại nhằm đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá các bạn hàng và các đối tác là chủ trương quan trọng mà Việt Nam đã khởi xướng và nhận được sự đồng tình và ủng hộ trong nước và quốc tế. Mặc dù vào thời điểm đó, qui mô thị trường trong nước còn nhỏ hẹp, nền kinh tế lại kém phát triển, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và còn chưa được khai thác hiệu quả trong khi nhu cầu về vốn và công nghệ cần thiết cho công cuộc đổi mới là rất lớn. Vì vậy, đổi mới hoạt động đối ngoại nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng là yêu cầu khách quan nhằm đưa Việt nam thoát khỏi thế cô lập và nhanh chóng hoà nhập với thế giới. Trong bối cảnh đó Việt Nam đã tranh thủ được sự quan tâm của nhiều nước trong khu vực, trong đó có chính phủ và giới kinh doanh Hàn Quốc. Một khi hợp tác khu vực được tăng cường sẽ tạo cơ hội cho các nước nói
chung, Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng có điều kiện mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (22-12-1992). Có thể coi đây là cái mốc quan trọng mở ra một trang sử mới cho mối quan hệ song phương nhiều mặt giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Cho đến nay, trải qua chặng đường 15 năm phát triển chưa phải là dài, song những thành tựu đã đạt được trong mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc rất đáng được ghi nhận, đặc biệt trong hợp tác kinh tế. Nếu như năm 1992, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc mới chỉ đạt 581,7 triệu USD, thì đến năm 2005 đã tăng lên 4,23 tỷ USD và năm 2006 đã lên đến hơn 5 tỷ USD. Theo Cục Xúc tiến đầu tư thương mại Hàn Quốc (KOTRA), tính đến hết tháng 7 năm 2007 Hàn Quốc đã chính thức vượt qua Singapore để trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lên tới 10,33 tỷ USD, trong đó phần lớn là vào khu vực công nghiệp và xây dựng. Hợp tác song phương Việt Nam - Hàn Quốc còn được phát triển trong các lĩnh vực khác, như khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục...
1.2. KHAI THÁC LỢI THẾ SO SÁNH VÀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU LỢI ÍCH CỦA HAI NƯỚC
Những thành tựu to lớn đó đã góp phần khẳng định rằng mối quan hệ song phương Việt Nam - Hàn Quốc thể hiện sự gặp nhau giữa nhu cầu và lợi ích của cả hai bên và được phát triển dựa trên những lợi thế so sánh của mỗi nước. Xét về nhiều mặt, hai nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc có tính bổ sung cho nhau rất rõ rệt. Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, có vị trí thuận lợi về giao thông, đặc biệt là giao thông biển, nối liền các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, trong đó có Hàn Quốc. Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam liên tục cố gắng trong việc khai thông các tuyến đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không, nối liền các thành phố lớn của Việt Nam với nhiều thành phố, trung tâm lớn trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ kinh tế với bên ngoài. Xét về qui mô nền kinh tế, Việt Nam có một số điểm lợi thế hơn so với Hàn Quốc, như dân số lớn hơn, mật độ dân số chỉ bằng 1/2 của Hàn Quốc do diện tích lớn hơn, tài nguyên thiên nhiên giàu có, đa dạng hơn tuy hoạt động khai thác còn kém hiệu quả.
Đáng tiếc rằng những điểm lợi thế này chủ yếu là do thiên nhiên ban tặng, và chúng đang bị giảm dần ý nghĩa của mình. Trong khi đó, Việt Nam đang và sẽ còn kém xa Hàn Quốc về các chỉ tiêu phát triển kinh tế cơ bản - tổng thu nhập quốc dân thấp hơn 14 lần, do đó thu nhập quốc dân trên đầu người tính theo ngang giá sức mua cũng thấp hơn gần 9 lần.
Từ những trình bày ở trên, có thể nói khái quát hơn rằng trong quan hệ song phương Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam có lợi thế về lao động và tài nguyên, còn Hàn Quốc có lợi thế về vốn và công nghệ. Sự tồn tại của chúng trong điều kiện cả hai nước đều đặt trọng tâm vào việc tăng cường liên kết kinh tế khu vực chính là nền móng cho sự phát triển nhanh chóng quan hệ nhiều mặt giữa hai quốc gia, đặc biệt sau năm 1992. Trong mối quan hệ này, cả hai nước đều có lợi: Việt Nam có điều kiện tiếp cận được với nguồn vốn dồi dào và công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý khoa học và tác phong làm việc nghiêm túc và rất kỷ luật của người Hàn Quốc. Hàn Quốc sẽ có được nhiều cơ hội đầu tư mới hiệu quả hơn, do có thể giảm được chi phí lao động, tiếp cận được với thị trường trên 80 triệu dân của Việt Nam, có thể chuyển giao các ngành công nghiệp cần nhiều lao động ra nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để tập trung vào việc phát triển các ngành công nghệ cao ở trong nước. Tính bổ sung của hai nền kinh tế này được thể hiện chính là ở chỗ đó.
Bảng 1.3 Qui mô nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc năm 2006
Việt Nam | Hàn Quốc | |
1. Dân số (triệu người) | 84 | 48,5 |
2. Diện tích (ngàn km2) | 332 | 99 |
3. Mật độ dân số (người/km2) | 253 | 489 |
4. Tổng thu nhập quốc dân (tỷ USD) - Xếp hạng | 50,9 59 | 793 10 |
- Tính bằng đô la | 725,3 | 16.270 |
- Xếp hạng | 123 | 33 |
6. Tổng thu nhập quốc dân tính theo | ||
ngang giá sức mua : - Tính bằng đô la | 3.025 | 22.620 |
- Xếp hạng | 123 | 34 |
7. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) | ||
Tốc độ tăng trưởng 2005-2006 (%) | 8 | 10,2 |
Trên đầu người, % tăng trưởng 2005-2006 | 13,6 | 10,1 |
5. Tổng thu nhập quốc dân trên đầu người:
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CẦN THIẾT ĐẢM BẢO VÀ THÚC ĐẨY QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC
Quá trình xây dựng cơ sở pháp lý cho việc điều tiết các hoạt động kinh tế song phương Việt Nam - Hàn Quốc được tiến hành một cách tích cực ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào cuối năm 1992. Về cơ chế hợp tác, ngay đầu năm 1993, chính phủ hai nước đã thành lập Uỷ ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật và từ năm 1995 - cơ chế về trao đổi chính sách thường niên cấp vụ, cục trưởng giữa hai Bộ Ngoại giao. Điều đáng chú ý là các cơ chế đó đã được duy trì đều đặn hàng năm và có kết quả thiết thực, thể hiện quyết tâm của hai nước, hai chính phủ muốn phát triển mạnh mẽ mối quan hệ song phương giữa họ. Những sự kiện quan trọng trong quan hệ song phương Việt Nam - Hàn Quốc trong suốt thời gian qua với nhiều chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước đã cải thiện đáng kể sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và nhân dân hai nước.
Bảng 1.4 Các sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc (1992- 2007)
Sự kiện | |
01-1992 | Ký hiệp định thành lập Văn phòng liên lạc |
08-1992 | Hàn Quốc mở Văn phòng liên lạc tại Việt Nam |
Việt Nam mở Văn phòng liên lạc tại Hàn Quốc | |
12-1992 | Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc |
11-1993 | Mở Tổng lãnh sự quán Hàn Quốc tại TP Hồ Chí Minh |
05-1994 | Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Han Sung Joo thăm Việt Nam |
08-1994 | Thủ tướng Hàn Quốc Lee Young Dug thăm Việt Nam |
05-1995 | Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười thăm Hàn Quốc |
07-1996 | Bộ trưởng ngoại giao Hàn Quốc Gong Ro Myung thăm Việt Nam |
08-1996 | Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Young Sam thăm Việt Nam |
11-1997 | Phó thủ tướng Bộ trưởng Bộ Thống nhất Hàn Quốc Kwon O.Kie thăm Việt Nam |
03-1998 | Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nông Đức Mạnh thăm Hàn Quốc |
08-1998 | Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và thương mại Hàn Quốc Park Chung Soo thăm Việt nam |
09-1998 | Chủ tịch uỷ ban kiểm soát và thanh tra Hàn Quốc thăm Việt Nam |
12-1998 | Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung thăm Việt Nam |
12-1998 | Phó chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Shin Sang Woo thăm Việt Nam |
07-1999 | Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và thương mại Hàn Quốc Hong Soon Young thăm Việt Nam |
08-2000 | Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên thăm Hàn Quốc |
10-2000 | Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm thăm Hàn Quốc |
12-2000 | Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Cho Sung Tae thăm Việt Nam |
07-2001 | Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và thương mại Hàn Quốc Han Seung Soo thăm Việt Nam |
08-2001 | Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Trà thăm Hàn Quốc |
08-2001 | Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương thăm Hàn Quốc |
12-2001 | Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Kim Dong Shin thăm Việt Nam |
04-2002 | Thủ tướng Hàn Quốc Lee Han Dong thăm Việt Nam |