Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 3

chối bỏ thì yêu cầu phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia nói chung, cũng như của toàn bộ các chủ thể trong nền kinh tế nói riêng càng trở nên cấp bách và trở thành nhiêm vụ trọng tâm trong điều kiện hiện nay. Chính vì vậy xác định được đúng đắn được vai trò của việc phát triển khoa học công nghệ nói chung và thị trường khoa học công nghệ nói riêng, trong tình hình hiện nay sẽ có tác động hết sức to lớn trong việc hoạch định, nghiên cứu phát triển thị trường công nghệ Việt Nam.

Trong các nghiên cứu hiện nay, việc xác định vai trò của thị trường khoa học công nghệ được đề cập khá nhiều theo một số khuynh hướng cụ thể như:

1.1.5.1 Thúc đẩy nhanh hơn sự lan truyền của tri thức khoa học công nghệ:

Như đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng của thị trường khoa học công nghệ, ở đây ta chỉ khẳng định thêm sự xuất hiện của thị trường khoa học công nghệ sẽ là bà đỡ cho khoa học công nghệ, cho các sản phẩm của nó được trao đổi, mua bán trên những nguyên tắc những luật chơi được xác định. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn khi thị trường được xác lập khi các hàng hóa với những đặc tính, những ưu điểm được công khai, được thương mại hóa một cách nhanh chóng chắc chắn sẽ giúp cho cả bên bán bên mua hàng hóa đẩy nhanh hơn tiến trình giao dịch, đồng thời cũng giảm bớt được các chi phí do thông tin bất đối xứng… nhờ vậy tri thức công nghệ sẽ lan tỏa nhanh hơn, chuẩn xác hơn và hiệu quả hơn. Tất yếu xét trên bình diện xã hội, cũng như trên bình diện nền kinh tế, tri thức sẽ được lan truyền nhanh hơn, hiệu quả hơn các công nghệ, các sản phẩm khoa học công nghệ sẽ mau chóng đến được với những đối tượng có nhu cầu với một mức giá hợp lý. Thị trường càng phát triển, các giao dịch càng diễn ra càng mau chóng, tri thức sẽ càng được lan truyền mau chóng.

1.1.5.2 Rút ngắn được thời gian, đồng thời kích thích sự phát triển hoạt động nghiên cứu, sáng tạo công nghệ

Cùng với việc thúc đẩy nhanh hơn sự lan truyền của tri thức khoa học thì sự xuất hiện của thị trường khoa học công nghệ cùng hệ thống luật pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các thể chế hỗ trợ thị trường sẽ tạo cho các chủ thể sở hữu các hàng hóa công nghệ có một động lực rất lớn trong việc tiếp tục phát triển, tiếp tục sáng tạo ra các công nghệ. Đó chính là động lực về lợi ích kinh tế, đây là một động lực luôn giúp con người sáng tạo cũng như huy động tối đa năng lực của mình để tìm kiếm để đạt được. Nếu không có thị trường khoa học công nghệ, không có những “luật chơi” được xác định rõ ràng khi tham gia thị trường, khi những lợi ích chính đáng của các chủ thể sở hữu, chủ thể sáng tạo ra sản phẩm khoa học công nghệ không được bảo đảm thì chắc chắn hoạt động nghiên cứu sáng tạo sẽ không thể phát triển mạnh mẽ.

Bên cạnh việc thị trường khoa học công nghệ kích thích hoạt động sáng tạo khoa học công nghệ từ việc thu được lợi ích kinh tế khi tham gia thị trường đối với các chủ thể sở hữu, các chủ thể sáng tạo khoa học công nghệ thì một yếu tố khác cũng hết sức quan trọng, đó là nhờ những thông tin từ thị trường sẽ giúp cho các hoạt động nghiên cứu được định hướng chính xác hơn, nhờ đó có thể rút ngắn dược thời gian các quá trình nghiên cứu, cũng như tổ chức triển khai các công nghệ mới. Đối với các viện nghiên cứu, các tổ chức hoạt động phát triển khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ phi lợi nhuận thì ngoài việc nắm bắt thông tin để có thể rút ngắn thời gian phát triển chuyển giao công nghệ thì điều này xét dưới giác độ tâm lý văn hóa cũng tạo ra những tiền đề mạnh mẽ kích thích sự nghiên cứu, sáng tạo của các tổ chức này, mà đặc biệt là ở những nhà nghiên cứu những nhà khoa học hoạt động không chỉ đơn thuần vì mục đích lợi ích kinh tế.

1.1.5.3 Gắn khoa học công nghệ với thực tiễn sản xuất sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng:

Đây chính là vai trò có tính thực tiễn nhất của thị trường khoa học công nghệ, xuất phát từ những nhu cầu thực tế nảy sinh trong quá trình sản xuất, tiêu dùng, buộc các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ phải giải

quyết. Một công nghệ chỉ thực sự có giá trị thương mại cao khi nó giải quyết được những vấn đề mà các nhà quản trị đặt ra. Đó chính là việc tạo ra được những sản phẩm với ưu thế vượt chội, với một chi phí hợp lý nhất để đảm bảo được tính cạnh tranh. Điều này đương nhiên buộc các công nghệ mới khi được phát triển phải xuất phát từ thực tế sản xuất. Cùng với nó các sản phẩm tiêu dùng ngày càng được hòan thiện, ngày càng đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu người tiêu dùng thì đương nhiên công nghệ để sản xuất ra nó cần phải càng phải hoàn thiện và có tính thương mại cao hay nói một cách khác trên cơ sở tín hiệu thị trường như vậy, các chủ thể ngiên cứu phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ sẽ cố gắng tạo ra những sản phẩm, những công nghệ gắn được nhiều hơn giữa thực tiễn sản xuất và tiêu dùng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

1.1.5.4 Chuyên môn hóa các hoạt động sản xuất các chủng loại hàng hóa khoa học công nghệ, khả năng thương mại hóa công nghệ:

Như đã phân tích, hàng hóa khoa học công nghệ có những đặc thù khác biệt đối với hàng hóa thông thường. Chính vì vậy, có rất nhiều dạng hàng hóa khoa học công nghệ, mỗi một dạng hàng hóa có một đặc điểm riêng, trên thực tế với từng loại hàng hóa khoa học sẽ được gắn với một quá trình nghiên cứu cải tiến phát triển nhất định, hay là việc tổng kết từ một hoặc nhiều quá trình sử dụng, hoặc xuất phát từ sự thay đổi từng phần hay có tính cách mạng của công nghệ…. Chính vì những đặc điểm này đã dẫn đến sự đa dạng của nhà cung cấp những sản phẩm, những phần khác nhau của một công nghệ hoàn chỉnh, hoặc những dạng sản phẩm khác nhau dần dần sẽ được từng loại nhà cung cấp chuyên biệt cung cấp, điều này tất yếu dẫn đến sự chuyên môn hoá các dạng sản phẩm gắn với nó là từng loại nhà cung cấp. Điều này cũng sẽ dẫn đến hệ quả giúp các nhà cung cấp từng chủng loại hoạt động hiệu quả hơn nhưng cũng đồng thời gắn kết hơn từ quá trình nghiên cứu cơ bản, quá trình thiết kế, thử nghiệm, quá trình sản xuất và tiêu dùng với nhau. Bên cạnh đó, nhờ sự gắn kết của cả qúa trình từ khi các ý tưởng công nghệ phôi thai đến khi trở thành công nghệ hoàn chỉnh và được quyết định về giá trị trên thị trường dựa vào mức độ tiên tiến, khả năng có thể đáp ứng

Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 3

được những nhu cầu của các bên mua dưới tác động của thị trường khoa học công nghệ, cùng với nhưng thể chế hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp các công nghệ sẽ được thương mai hoá nhanh hơn, đúng với giá trị thực của nó hơn. Để làm được điều này đương nhiên sẽ dần hình thành những độ ngũ nhà môi giới, tổ chức môi giới chuyên nghiệp, cùng với các bên cung hàng hoá công nghệ xúc tiến nhanh hơn, thương mại hoá nhanh hơn những công nghệ, những sản phẩm khoa học công nghệ mới ra đời.

1.1.5.5 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như chúng ta đã biết, thị trường khoa học công nghệ là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần IX đã khẳng định: “Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học – công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyên giao công nghệ…” với việc đẩy nhanh qua trình tạo lập, hình thành và phát triển của thị trường khoa học sẽ có một vai trò to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Bởi khoa học công nghệ là nhân tố mấu chốt quyết định sự thành công của quá trình “Công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước” nếu không phát triển được tiềm lực khoa học công nghệ tương xứng, không thiết lập được một thị trường khoa học công nghệ mà ở đó các chủ thể tham gia thị trường không thể phát huy được cao độ các khả năng của mình thì chắc không thể có một thị trường khoa học công nghệ thực sự và đương nhiên với một thị trường có vai trò động lực, đầu tầu cho sự phát triển như vậy mà hoạt động không đúng chức năng, hoạt động kém hiệu quả thì đương nhiên không thể có một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sung sức, mạnh mẽ đáp ứng được yêu cầu hội nhập, đảm bảo được sức cạnh tranh trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.‌

1.2 Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển thị trường khoa học công nghệ:

1.2.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc:

Ngay từ khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường lần thứ ba sau sự kiện Thiên An Môn, điều mà ông quan tâm nhất đó chính là việc phát triển tiềm lực khoa học của Trung Quốc và coi đây như là yếu tố quan trọng nhất cùng với việc phát triển các đặc khu kinh tế là động lực để cho Trung Quốc thoát khỏi sự nghèo đói, lạc hậu kết quả của các chính sách trong Đại cách mạng văn hoá vô sản. Có thể nói, điểm nhấn đầu tiên chính là những năm đầu của thập kỷ 80 sau khi Đặng Tiểu Bình có một loạt chuyến công du sang các nước phát triển, được chứng kiến tận mắt những thành tựu khoa học công nghệ của các nước phát triển, quay về Trung Quốc với luận thuyết nổi tiếng “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là bắt được chuột” Ông đã đặt việc phát triển tiềm lực khoa học của Trung Quốc lên hàng quốc sách quan trọng nhất. Kể từ năm 1984 Trung Quốc đã có Luật sáng chế, năm 1987 có luật hợp đồng công nghệ... cho đến nay, sau hơn 20 năm tiềm lực khoa học công nghệ của Trung Quốc đã có những bước phát triển nhảy vọt. Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới sau Nga, Mỹ phóng thành công tầu vũ trụ có người lái lên quỹ đạo, cùng với đó là hàng loạt các tập đoàn xuyên quốc gia đã thành lập những cơ sở nghiên cứu phát triển những công nghệ cao ở Trung Quốc trên cơ sở sử dụng nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở nước này. Các doanh nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc đã trở thành những đối thủ đáng gờm cho bất cứ đối thủ nào trong khu vực Châu Á cũng như trên thế giới. Đồng thời, Trung Quốc đã chuyển đổi khá thành công các viện nghiên cứu chủ yếu hoạt động bằng nguồn ngân sách nhà nước sang các doanh nghiệp khoa học công nghệ trên cơ sở tự hạch toán nguồn thu và chi. Không những thế, trong những năm gần đây, với thăng dư thương mại và tỷ lệ dự trữ ngoại tệ USD đứng đầu thế giới, Trung Quốc đã trở thành những nhà đầu tư, những người mua lớn trong thị trường khoa học công nghệ thế giới. Ngày nay, những tập đoàn, những công ty lớn của Trung Quốc không chỉ còn dừng lại ở việc mua bán những hàng hoá khoa học công nghệ đơn lẻ mà đã tiến tới mua, sáp nhập cả những công ty lớn hoạt động trong những lĩnh vực công nghệ cao của các nước phát triển trên thế giới. Ví dụ: việc

LENOVO mua toàn bộ nhà máy sản sản xuất máy tính xách tay IBM của công ty IBM Mỹ, việc đàm phán mua hãng xe hơi đứng thứ tư SANGYONG của Hàn Quốc, Hãng xe ROVER của Anh... Từ những kết quả Trung Quốc đạt được, chúng ta có thể rút được một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất: Trung Quốc đã có những chiến lược cụ thể và rõ ràng từ rất sớm trong việc phát triển tiềm lực khoa học công nghệ qua các giai đoạn. Đội ngũ lãnh đạo Trung Quốc đã đánh giá và có tầm nhìn chính xác cũng như hoạch định được uyển chuyển, đúng đắn chiến lược phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia. Bên cạnh đó, việc hoạch định các chính sách phát triển thị trường khoa học công nghệ cũng được đặc biệt quan tâm bằng các bước đi cụ thể như: việc chính phủ thành lập các quỹ như “ quỹ khoa học tự nhiên quốc gia” để tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu triển khai những dự án trọng điểm dựa trên năng lực của các viện nghiên cứu cũng như thông qua cơ chế đấu thầu để thực hiện các dự án. Bên cạnh việc tài trợ ngân sách cho các dự án quan trọng, Trung Quốc cũng thực hiện việc cắt giảm một phần, hay toàn phần nguồn ngân sách cho các viện nghiên cứu không có đủ năng lực hoặc đối với các chương trình nghiên cứu chưa thực sự cần thiết, khiến các viện nghiên cứu phải tự chủ trong các hoạt động của mình. Đồng thời xây dựng quy chế trao quyền tự chủ cho các giám đốc, các tổ chức khoa học công nghệ trong việc ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp, liên doanh hay ký kết hợp tác chuyển giao công nghệ với nước ngoài.

Thứ hai: Trong thời gian đầu và ngay cả trong giai đoạn hiện nay, Trung Quốc chú ý đến việc thu hút công nghệ qua đầu tư nước ngoài, bằng chuyển giao công nghệ trong đó đầu tư trực tiếp giữ một vai trò quan trọng. Đồng thời với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài Trung Quốc cũng đặc biệt chú trọng đến việc phát triển các công nghệ độc lập. Dựa trên một chiến lược phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ, các hàng hoá khoa học công nghệ theo nhiều tầng. Chóp cao nhất là những sản phẩm khoa học công nghệ cao, đặc biệt thuộc bí mật quốc gia do các cơ sở của nhà nước đảm nhiệm

không được thương mại hoá. Ví dụ như: công nghệ chế tạo bom hạt nhân, công nghệ vũ trụ... thứ hai là những công nghệ phục vụ những ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp đó những công nghệ để sản xuất các hàng hoá tiêu dùng. Để tự chủ trong các công nghệ này, Trung Quốc rất coi trọng việc nhập một phần, hoặc toàn phần những công nghệ, những hàng hoá khoa học công nghệ cơ bản, hoặc “copy” những công nghệ từ sản phẩm của các hãng nước ngoài sau đó phát triển thành công nghệ của riêng mình.

Thứ ba: Trung Quốc bắt buộc chuyển đổi các viện nghiên cứu sang các doanh nghiệp khoa học công nghệ, hoạt động theo cơ chế tự hạnh toán. Tuy nhiên, trong thời gian đầu việc chuyển đổi này chưa được thành công như mong đợi, nguyên nhân chủ yếu là do các viện nghiên cứu được chuyển đổi rất khó thích nghi với việc hoạt động trên thương trường vì lĩnh vực nghiên cứu và kinh doanh có đặc thù hoàn toàn khác nhau, không những thế, việc đầu tư phát triển hàng hoá khoa học công nghệ có tính rủi ro cao, năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp có nhu cầu kém do thiếu hiểu biết về công nghệ... Để khắc phục tình trạng này, Trung Quốc cũng xây dựng được một hệ thống quỹ hỗ trợ các hoạt động khoa học công nghệ, trong đó chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ứng dụng, đổi mới, phát triển... các công nghệ, nhất là việc hỗ trợ tư vấn chuyển giao công nghệ từ các công ty chuyển đổi đến các doanh nghiệp có nhu cầu. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng sử dụng thị trường chứng khoán, các ngân hàng, cũng như xác định rõ vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ các hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ đến các doanh nghiệp. Nhờ có những chính sách này mà thị trường khoa học công nghệ của Trung Quốc đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ, các hợp đồng được ký giữa các doanh nghiệp chuyển đổi với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tăng lên nhanh chóng. Đáng chú ý là tỷ lệ hợp đồng tư vấn và dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ vào cuối thập kỷ 90 chiếm tới 75% tổng số hợp đồng với giá trị chiếm gần 50%, các hợp đồng phát triển công nghệ có mức tăng trưởng khá, trong khi đó hợp đồng chuyển giao công

nghệ thuần tuý chỉ chiếm 11%-13% trong thời kỳ này. Cùng với đó, số đơn vị thuộc các thể chế hỗ trợ thị trường cũng tăng lên nhanh tróng, năm 1987 chỉ có 9.648 cơ sở nhưng đến năm 1999 đã tăng lên 21.132 cơ sở.

Thứ tư: Trung Quốc đã xây dựng được nguồn nhân lực khoa học công nghệ có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của các tập đoàn, những công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao đầu tư tại Trung Quốc. Để làm được điều này ngay từ đầu, Trung Quốc đã có những chính sách ưu đãi đối với nguồn nhân lực KHCN. Ví dụ như tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu được phép làm công việc thứ hai khi đã hoàn thành công việc tại các tổ chức khoa học công nghệ do nhà nước quản lý. Đồng thời, Trung Quốc cùng với việc phát triển yếu tố văn hoá, tinh thần dân tộc, đã huy động được một phần không nhỏ nguồn lực trí thức, tài chính của đội ngũ Hoa Kiều trên toàn thế giới trong phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ

1.2.3 Kinh nghiệm của một số nước EU

Kinh nghiệm của Pháp: Ở Pháp việc nghiên cứu triển khai đựơc tiến hành bởi hệ thống các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu của nhà nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu triển khai ở các trường đại học vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Để có thể chuyển giao công nghệ từ nghiên cứu, ứng dụng đến các ngành, các doanh nghiệp, Pháp có Uỷ ban quốc gia về đổi mới công nghệ. Uỷ ban này xây dựng những chiến lược thúc đẩy sự đổi mới khoa học công nghệ ở tất các các ngành, cũng như của các doanh nghiệp trong đó đặc biệt chú trong đến việc đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống của Uỷ ban quốc gia bao gồm các cục, trong các cục có các chi nhánh là các đầu mối chuyển giao công nghệ và cuối cùng cùng của hệ thống trực tiếp ở các vùng là các “điểm công nghệ”. Các điểm này, căn cứ vào tình hình thực tế của các doanh nghiệp ở địa phương sẽ tiến hành hỗ trợ, tư vấn hoặc xúc tiến việc triển khai, hay phát triển công nghệ phù hợp cho doanh nghiệp. Bên cạnh hệ thống của Uỷ ban quốc gia, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu, ở Pháp cũng thành lập riêng các trung tâm nghiên cứu, ứng

dụng hợp tác trực tiếp với các doanh nghiệp để phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ, hay đổi mới công nghệ.... tạo thành một mạng lưới đan xen theo nhiều tầng, và nhiều cấp độ cho việc liên kết chuyển giao công nghệ đối với các ngành cũng như các doanh nghiệp.

Để có thể thực hiện được việc chuyển giao công nghệ, cũng như giúp cho hệ thống hỗ trợ chuyển giao hoạt động được tốt, Pháp đã đề ra hàng 100 chương trình hỗ trợ cụ thể. Mỗi chương trình có nhiệm vụ nhất định như có chương trình chuyên hỗ trợ các doanh nghiệp khi tiến hành hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học; có chương trình chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ; có chương trình chuyên hỗ trợ việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ của các công ty.... Bên cạnh đó, Pháp cũng tập trung hoàn thiện hệ thống luật để đảm bảo hoạt động của thị trường cũng như khuyến khích được các tổ chức cá nhân tham gia. Đáng chú ý nhất là việc ban hành luật đổi mới công nghệ năm 1993, luật này cho phép các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học được phép tham gia thành lập các công ty vệ tinh để hợp tác, nghiên cứu chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp. Đối với các nhà nghiên cứu đang làm việc tại các cơ quan nghiên cứu của nhà nước luật quy định được phép thành lập doanh nghiệp để tự quản lý, trong vòng 6 năm được giữ nguyên chức vụ tại các cơ quan nghiên cứu nếu vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó, nếu các nhà nghiên cứu tiếp tục có nhu cầu cộng tác với cơ quan nghiên cứu thì được phép làm cố vấn để duy trì quyền lợi về tài chính của mình.

Kinh nghiệp của Đức: Ở Đức việc nghiên cứu triển khai được thực hiện tại các trường đại học chiếm tỷ lệ lớn nhất, kinh phí nghiên cứu được lấy chủ yếu từ nguồn ngân sách của các bang (16 bang) nơi có các trường đại học. Các nghiên cứu này phần lớn là các nghiên cứu cơ bản, ngoài ra cũng có một số nghiên cứu ứng dụng. Bên cạnh các trường đại học Đức cũng có nghiều cơ quan nghiên cứu khác đảm trách các nhiệm vụ khác nhau như Hiệp hội thúc đẩy khoa học, Hiệp hội xúc tiến nghiên cứu ứng dụng... Các hiệp hội này bao gồm hệ thống các viện nghiên cứu hoạt động độc lập cả về

mặt pháp lý và tài chính. Ngoài các cơ quan nghiên cứu là các trường đại học, các hiệp hội khoa học thì chính quyền liên bang và chính quyền các bang cũng có các cơ sở nghiên cứu nhưng các cơ sở nghiên cứu này chủ yếu thực hiện chức năng quản lý về khoa học công nghệ và thực hiện nhiệm vụ của chính phủ và các bộ trong việc tiếp thu và truyền bá tri thức khoa học ở tầm vĩ mô. Một điểm đáng chú ý nữa ở Đức là còn xuất hiện một số tổ chức nghiên cứu triển khai của tư nhân hoạt động phi lợi nhuận, nguồn kinh phí được tài trợ từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc một ngành hoặc liên ngành.

Để thực hiện được việc chuyển giao công nghệ, Đức thành lập một hệ thống các văn phòng liên lạc của các trường đại học, các văn phòng của các cơ sở nghiên cứu ngoài đại học, các trung tâm tư vấn, chuyển giao, phát triển công nghệ, các trung tâm ứng dụng và giới thiệu công nghệ. Các văn phòng liên lạc của các trường chịu trách nhiệm tập hợp tất cả các sản phẩm, các hàng hoá khoa học công nghệ sau đó giới thiệu đến các đại lý của các ngành để liên hệ với các doanh nghiệp. Các văn phòng ngoài trường đại học tổ chức các hội thảo, hội nghị tiếp xúc giới thiệu về công nghệ. Các trung tâm tư vấn chuyển giao đáp ứng chủ yếu những nhu cầu chuyên biệt về công nghệ của các công ty. Các trung tâm ứng dụng chủ yếu giới thiệu các công nghệ ở dạng tiềm năng và khả năng thương mại hoá của công nghệ. Ngoài các văn phòng và trung tâm như trên để chuyển giao các công nghệ cụ thể trong các ngành, cũng như trên thị trường ở Đức còn có các văn phòng tư vấn thuộc ngành, chủ yếu làm nhiệm vụ môi giới, các hiệp hội nghiên cứu ngành để liên kết các thành viên. Ở các vùng có hệ thống các mạng lưới cung cấp thông tin về khoa học công nghệ, các hàng hoá công nghệ, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh, các nhà môi giới độc lập...

Cũng như ở Pháp, Đức cũng có các chương trình hỗ trợ phát triển như các chương trình nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ ở các bang, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp về nhân lực khoa học công nghệ...

Kinh nghiệm của Italy: Việc nghiên cứu triển khai được đảm nhiệm bởi các trường đại học, và các cơ quan nghiên cứu quốc gia không thuộc các trường đại học. Khác với Pháp và Đức, các trường đại học ở Italy không đóng vai trò thường xuyên trong việc chuyển giao công nghệ mà việc chuyển giao chủ yếu thuộc các cơ quan nghiên cứu quốc gia. Ở Italy Hội đồng nghiên cứu quốc gia xây dựng các chương trình hành động, điều phối có hệ thống việc thúc đẩy phổ biến các kết quả nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ đến các công ty, đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo mô hình cơ quan chuyển giao công nghệ, đồng thời thành lập mạng lưới xúc tiến chuyển giao công nghệ trên cơ sở thành lập các hội đồng ở mỗi địa phương . Tại các hội đồng hình thành những nhóm gồm các nhân viên có năng lực về khoa học công nghệ, các nhân viên này chủ động liên hệ tìm kiếm để giới thiệu, tư vấn chuyển giao các công nghệ cho các doanh nghiệp trong vùng. Đối với việc chuyển giao trong ngành, nhiệm vụ chuyển giao do các phòng thương mại và công nghiệp hoặc do hiệp hội của các ngành thực hiện. Để tăng cường các sản phẩm khoa học công nghệ, Italy xây dựng một hệ thống công viên khoa học trong đó có các công ty khoa học công nghệ hoạt động, các thành viên của các công ty này thường đến từ các trường đại học. Ở các chính quyền địa phương, Italy thực hiện chiến lược ưu tiên khai thác tối đa những nguồn lực khoa học công nghệ hiện có, đồng thời hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp đi đôi với việc hỗ trợ các doanh nghiệp về nhân lực khoa học công nghệ bằng việc giới thiệu đưa nhưng sinh viên đã tốt nghiệp các ngành công nghệ về công tác tại doanh nghiệp.

Kinh nghiệm của Anh: ở Anh việc nghiên cứu triển khai được tiến hành bởi hệ thống các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu công nghệ và các phòng nghiên cứu độc lập. Ngân sách của Chính phủ chủ yếu tài trợ cho việc nghiên cứu cơ bản. Để tiến hành chuyển giao khoa học ông nghệ đến các doanh nghiệp, các trường đại học thành lập các văn phòng liên lạc nghiên cứu để hỗ trợ đàm phán về các điều khoản tài chính, các điều khoản về việc

liên kết nghiên cứu, các hoạt động tư vấn để thương mại hoá các sản phẩm khoa học công nghệ và sở hữu trí tuệ.

Bên cạnh các văn phòng, các trường đại học còn tham gia thành lập các các công ty để chuyển giao công nghệ . Các công ty này ít nhất có một phần, hoặc toàn bộ là thuộc sở hữu của các trường đại học. Công ty được thành lập theo kiểu mẹ, con. Công ty mẹ có trách nhiệm phát triển, đăng ký, khai thác đầu tư cho các sở hữu trí tuệ được tạo ra từ các truờng đại học, các công ty con trên từng lĩnh vực làm nhiệm vụ tập trung vào thương mại hoá các công nghệ, các sở hữu trí tuệ từ công ty mẹ. Ngoài ra, các trường đại học còn tham gia vào các công viên khoa học công nghệ. Ở Anh, công viên khoa học công nghệ được tổ chức như các doanh nghiệp, phần lớn các chủ thể tham gia công viên khoa học là các trường đại học. Đồng thời để có mạng lưới trợ giúp chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, ở trung ương, Bộ thương mại Anh tổ chức hàng 100 cơ quan để liên kết các doanh nghiệp với các nhà cung cấp công nghệ. Ở địa phương có các cơ quan phát triển khu vực cộng tác với chính quyền sở tại trong việc tư vấn, hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Để hỗ trợ một cách cụ thể cho việc chuyển giao khoa học công nghệ, Anh cũng có nhiều chương trình như chương trình “lối khoảng cách” mục đích để thu hẹp giữa việc sáng tạo, phát triển công nghệ với việc thương mại hoá công nghệ để ứng dụng được vào sản xuất kinh doanh; chương trình sử dụng mô hình giảng dạy tại công ty để hướng nghiệp cho sinh viên, chương trình này để kết hợp việc giảng dạy gắn với thực tiễn sản xuất để sinh viên sau khi ra trường có thể thích ứng được ngay với công việc; chương trình “giáo dục đại học vươn tới ngành và cộng đồng” chương trình này chủ yếu để chuyển giao tri thức mới.

Tóm lại, qua việc phân tích kinh nghiệm phát triển một số nước thuộc EU ta có thể rút ra một số kết luận về việc phát triển thị trường khoa học công nghệ ở các nước này như sau:

Thứ nhất: Có thể nói, trong các hoạt động khoa học công nghệ, đặc biệt là các hoạt động nghiên cứu triển khai, nghiên cứu phát triển R&D của các nước EU có một điểm chung đó là các trường đại học giữ một vai trò rất quan trọng, bên cạnh đó việc nghiên cứu, triển khai cũng được tiến hành ở các viện nghiên cứu hoặc các phòng thí nghiệm độc lập... song có vai trò không quan trọng bằng. Các nghiên cứu cơ bản được chính phủ, các bang cấp kinh phí bên cạnh đó cũng có kinh phí từ các tổ chức phi chính phủ của tư nhân song nguồn kinh phí này chủ yếu cho các nghiên cứu ứng dụng.

Thứ hai : Để phát triển thị trường khoa học công nghệ, phát triển các nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, các nước Châu Âu đã để cho các trường đại học, các viện nghiên cứu chủ động hợp tác cùng các doanh nghiệp, cũng như thành lập các doanh nghiệp vệ tinh, các văn phòng tư vấn chuyển giao công nghệ trên cơ sở yêu cầu thực tế và tự hạch toán trong việc tiến hành hợp tác, nghiên cứu phát triển công nghệ.

Thứ ba: Nhà nước giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo lập một môi trường pháp lý cùng các chế đãi ngộ cụ thể đối với nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Nhà nước xây dựng và duy trì một hệ thống, một mạng lưới các cơ quan tổ chức, các trung tâm tư vấn chuyển giao, các công viên khoa học cùng các thể chế hỗ trợ sự phát triển của thị trường từ trung ương đến địa phương, từ chính phủ đến các vùng một cách rộng khắp. Đồng thời các tổ chức này luôn giữ vai trò chủ động, tích cực phối hợp cùng với các hiệp hội thuộc các ngành trong việc tư vấn, giới thiệu, chuyển giao công nghệ đến các doanh nghiệp.

Thứ tư: Nhà nước luôn xây dựng các chương trình hoạt động cụ thể, mỗi chương trình hướng đến việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong việc phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ, nhân lực khoa học công nghệ ....

Kết luận chương 1: Trên đây là những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường khoa học công nghệ, với việc làm rõ các khái niệm, định nghĩa, cũng

như những các đặc điểm, vai trò, các nhân tố ảnh hưởng, kinh nghiệm phát triển thị trường khoa học công nghệ ở các nước đi trước, cùng các nguyên lý cơ bản trong việc vận hành thị trường đã cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về thị trường khoa học công nghệ. Qua việc nắm bắt và làm rõ trên, ta cũng thấy được những vấn đề cơ bản mà việc phát triển thị trường khoa học công nghệ cả về lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra điều này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý,... có được những quyết định chuẩn xác hơn trong các hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng giúp các nhà nghiên cứu, các bạn đọc quan tâm... có được những cái nhìn tổng thể hơn về thị trường khoa học công nghệ để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện và thiết lập được một hệ thống lý luận quy chuẩn về thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam trong tương lai.‌‌

***********

Chương 2

THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM

-----------------------

2.1 - Những cơ sở pháp lý cho việc hình thành thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam

2.1.1 Chủ trương, đường lối chung về phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam

Đảng cộng sản, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định “phát triển khoa học công nghệ và giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Từ trước đó, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ khoa học công nghệ là động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Tại nghị quyết 26 NQ/ TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về “khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới” trong Nghị quyết này cũng chỉ rõ vai trò của khoa học công nghệ trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ, xây dựng cơ chế quản lý khoa học công nghệ phù hợp với cơ chế kinh tế này; đồng thời mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở nghiên cứu triển khai, quan tâm đúng đắn đến đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, thành lập Hội đồng chính sách khoa học quốc gia. Tăng cường đầu tư ngân sách cho hoạt đông khoa học công nghệ. Trước đó 20/1/1981, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về chính sách khoa học kỹ thuật coi khoa học vừa là công cụ vừa là căn cứ để thực hiện thắng lợi các kế hoạch kinh tế xã hội. Đây có thể nói là văn bản đầu tiên định hướng cho chính sách phát triển khoa học công nghệ ở nước ta sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng.

Tiếp đó ngày 30/7/1994 tại Hội nghị TW 7 khoá VII đã có Nghị quyết 07 NQ/HNTW về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000... xây dựng giai cấp công nhân trong thời đại mới” trong chính sách phát triển công nghệ đã chỉ rõ phải gắn khoa học công nghệ với sản xuất, dịch vụ; gắn các chương trình phát triển khoa học công nghệ với các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Mở rộng phương thức ký kết hợp đồng nghiên cứu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/04/2022