- Tôi vẫn cần phải cải tiến…………………………………………………………….
- Điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi là…………………………………………..
- Sau này, tôi muốn……………………………………………………………………
- Đôi lúc tôi cần lời khuyên khi……………………………………………………….
Bài tập 2 : Bài tập này được thực hiện tại lớp học hoặc một không gian hợp lý ( Bài tập này giúp học sinh về khả năng nhận xét và tự nhận xét ).
Mỗi học sinh tự giới thiệu về mình trên một mặt của một tờ giấy nhỏ (tập học sinh), có ghi tên mình. GV thu lại tất cả các tờ giấy này và phát lại tình cờ cho các học sinh. Mỗi học sinh nhận được tờ giấy của người khác rồi ghi nhận xét của mình về người đó vào mặt sau tờ giấy ( không ghi tên người nhận xét ). GV thu lại một lần nữa và trả lại cho người ban đầu để học sinh so sánh điều mình biết về mình và điều về mình mà người khác thấy và có khi chính mình chưa được biết.
Bài tập 3 : Tìm hiểu nguồn gốc cách nhìn vấn đề, thái độ trước một vấn đề.
GV vẽ trên một tờ giấy trắng hình 5 gương mặt với trạng thái khác nhau (có thể sưu tầm) : bình thường (vô tư), ghét, rất ghét, thích, rất thích . GV phát cho học sinh và yêu cầu ghi nhận xét đâu là gương mặt mình thích, rất thích, ghét, rất ghét, bình thường, ở dưới các gương mặt được chọn tùy theo cách nhìn, thái độ của mình đối với các gương mặt ấy. Học sinh tự giải thích lý do của sự lựa chọn đó (GV nhận xét, kết luận: Thông thường, cách nhìn, thái độ của con người phát xuất từ các trải nghiệm tích cực hay tiêu cực của mình trong quá khứ, không thể đánh giá chỉ dựa vào một vài dấu hiệu bề ngoài…).
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang - 18
- Bình Thường 4. Ít Cần Thiết 5. Không Cần Thiết
- Giao Tiếp Là Gì ? Điều Kiện Quan Trọng Để Hình Thành Mối Quan Hệ Giao Tiếp ?
- Phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang - 22
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Bài tập 4:Nhận thức trong giao tiếp (Bài tập được thực hiện trong lớp học )
GV cho học sinh xem một đoạn phim hoặc tấm ảnh ( chuẩn bị từ trước phù hợp với đối tượng giao tiếp và điều kiện thực hiện) . Yêu cầu mọi người xem phim ( hoặc ảnh ) và tưởng tượng một câu chuyện ngắn bằng cách trả lời 3 câu hỏi sau : 1- Cái gì đã xảy trước khi có cảnh này ? 2- Cái gì đang diễn ra trong cảnh này ? 3- Cái gì sẽ tiếp sau đó?
(Có thể đặt thêm câu hỏi: Chi tiết nào được chú ý nhất, đặt tên cho tình huống đang xảy ra trong phim, ảnh ?) . GV có thể giúp từng học sinh liên hệ cái tưởng tượng của các em với một mảng đời sống nào đó. GV nhận xét: cần có sự chọn lọc trong cách nhìn. - Phân biệt cách nhìn và phóng chiếu. - Cần kiểm tra lại thành kiến của mình trong giao tiếp, nhìn nhận vấn đề.
Bài tập 5: Bày tỏ sự cảm thông.
Bài tập này giúp học sinh bày tỏ sự cảm thông đối với người khác trong cuộc sống.
GV chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm từ 5-7 người và có nhiệm vụ bày tỏ sự cảm thông với các nhân vật trong mỗi tình huống sau:
Tình huống 1: Hùng mồ côi mẹ nên chỉ có 2 bố con sống với nhau. Cảnh “gà trống nuôi con” nên cuộc sống của 2 người rất vất vả. Bố Hùng chăm chỉ làm lụng, thức khuya dậy sớm kiếm tiền nuôi con ăn học. Thấy sức khoẻ của mình càng ngày càng yếu, thường xuyên mệt mỏi. Bố Hùng đi bệnh viện khám, bác sĩ nói rằng ông bị mắc bệnh hiểm nghèo khó qua khỏi. Hùng suy sụp trước sự thật này.
Tình huống 2: Cha mẹ Thảo không còn yêu thương nhau nữa, họ suốt ngày cãi nhau, nhưng vì thương Thảo nên hai người không chia tay. Thảo rất buồn và xấu hổ với mọi người, nhất là bạn bè. Thảo muốn nghỉ học và thoát ra khỏi hoàn cảnh đó.
Tình huống 3: Trong lớp, Nga và Dũng chơi với nhau rất thân, hai người như hình với bóng. Mọi người trong lớp cho rằng 2 bạn đang yêu nhau. Thời gian gần đây, Nga gầy đi và học sút hẳn, mọi người không thấy họ đi chung với nhau nữa.
Bài tập 6 : Giá trị trong giao tiếp.
GV kể cho học sinh nghe một câu chuyện hư cấu như sau : Hiền là tên của cô gái nghèo, có chồng tên là Bảo. Hiền giúp việc nhà cho một ông thương gia giàu có tên Cảnh. Một hôm, Bảo về quê, chẳng may gặp tai nạn trên đường đi. Anh bị thương và phải cấp cứu ở bệnh viện (quê Bảo). Gia đình của Bảo cũng nghèo khó. Hiền được tin phải về quê chồng gấp để chăm sóc chồng và cần một khoản tiền không nhỏ. Hiền trình bày vấn đề với ông chủ Cảnh và ngỏ ý muốn vay số tiền. Sau một hồi do dự, ông chủ Cảnh ra điều kiện là Hiền phải làm bạn tình với ông một đêm trước khi được cấp số tiền. Hiền phẫn nộ từ chối và tìm đến người bạn gái tên Lan để nhờ sự giúp đỡ. Lan lạnh lùng từ chối. Hiền thất vọng và không còn sự lựa chọn nào khác nên quay lại với Cảnh đồng ý điều kiện của ông ta. Về quê chồng, sau một thời gian chăm sóc chồng Hiền hồi phục và được ra viện. Lương tâm cắn dứt, Hiền thuật lại câu chuyện cho chồng nghe để mong được tha thứ. Ngược lại sự mong đợi của Hiền, Bảo đánh đập cô và đuổi Hiền ra khỏi nhà. Xấu hổ và quẫn trí, Hiền trở lại gặp ông chủ và mưu sát ông ta khiến ông ta bị thương tật 61%. Hiền phải bị đi tù.
Sau khi kể chuyện xong, GV cho các học sinh lên danh sách theo thứ tự từ trên xuống ai là người xấu nhất và ai ít xấu nhất, lý do tại sao chọn như vậy. Kết luận là không có cách chọn nào là đúng hoặc sai mà đúng hay sai là tùy theo nấc thang giá trị của mỗi người. Trong giao tiếp và trong cuộc sống phải biết chọn giá trị phù hợp…v.v.
Bài tập 7 : Phán đoán.
Bài tập này giúp học sinh nhận thức về các vấn đề sau : Sự cảm nhận bên trong, suy tưởng, phán đoán từ các yếu tố kích thích bên ngoài qua các giác quan; Sự cảm tính trong cách ứng xử, trong cách nhìn vấn đề, cũng như trong cách quyết định.
GV chuẩn bị trước 5, 6 món đồ vật khác nhau ( đa dạng hóa các đồ vật này, có loại quen thuộc và không quen thuộc ) rồi cho tất cả vào một hộp carton đậy kín. GV thực hiện tiếp các bước như sau: GV lắc mạnh bao đựng các món đồ cho 1 - 2
học sinh nghe tiếng động nhiều lần và các học sinh này phải nhận diện được cái gì có trong hộp ( ghi lên tờ giấy ). GV mời 1 - 2 học sinh khác thò tay vào bao mà không được nhìn bên trong hộp carton (quay mặt đi chổ khác) và qua xúc giác để nhận diện tên các loại đồ vật, học sinh ghi kết quả lên tờ giấy. GV cho tiếp 1 - 2 học sinh khác nhìn thấy từng món đồ vật, xong nhanh chóng GV cất mọi thứ vào hộp. Học sinh cũng ghi lại tên các món đồ vật ấy lên một tờ giấy. Kết quả là các học sinh nghe tiếng động của các đồ vật va chạm vào nhau và vào vách hộp nhận diện sai tên món đồ vật nhiều hơn các học sinh khác được chạm vào các món đồ vật và dĩ nhiên, kết quả tốt nhất là thuộc về những học sinh đã nhìn thấy các món đồ vật ( sử dụng trí nhớ nhiều hơn).
Bài tập 8 : Mô tả hình vẽ (Bài tập được thực hiện tại lớp học).
Chọn 6 học sinh tình nguyện và chia họ ra làm 3 cặp đôi : cặp 1, cặp 2 và cặp
3. Họ được mời ra khỏi lớp học trong giây lát và sẽ lần lượt từng cặp vào thực hiện trò chơi. GV cho học sinh còn lại trong lớp xem tấm ảnh hình học mà mình đã chuẩn bị sẵn ( phù hợp với học sinh). GV giải thích cách làm để học sinh cả lớp theo dõi hoạt động và yêu cầu các em phải rút ra những điểm cần thiết sau khi 3 cặp thực hiện xong trò chơi. GV mời cặp 1 vào lớp và 2 người này sẽ quyết định ai là người mô tả tấm hình và ai là người vẽ hình trên bảng. GV cho người có nhiệm vụ mô tả xem tấm hình trong 1 - 2 phút để nhớ từng chi tiết và mô tả như thế nào để bạn mình vẽ lại đúng hình ấy trên bảng. Khi mô tả, người này chỉ được phép nói một lần từng chi tiết một và người vẽ không được hỏi lại. Tiến trình hoạt động này được lập lại với cặp 2 và chỉ có điểm khác là người mô tả được quyền cầm tấm hình để mô tả. Riêng ở cặp 3, người mô tả có quyền lập đi lập lại lời mô tả của mình và người vẽ hình trên bảng được quyền hỏi lại ( Kết quả 3 hình sẽ khác biệt nhau và hình của cặp 3 là hình đúng hoặc gần đúng nhất. Tuy nhiên, cũng có trường hợp xảy ra là hình vẽ ở cặp1, 2 lại đúng do ngoại lệ - người mô tả có trí nhớ tốt, biết cách mô tả phù hợp với người nghe và người nghe nắm bắt thông tin chính xác, có kinh nghiệm về hình học).
GV rút ra kết luận, nhận xét về vai trò, ý nghĩa của việc truyền thông tin, việc lắng nghe và sự phối kết hợp của con người trong giao tiếp.
Bài tập 9: Trò chơi truyền tin.
Bài tập này giúp học sinh hiểu thế nào là hình thức truyền đạt thông tin một chiều và những hạn chế của nó. Học sinh biết lắng nghe người khác nói, tôn trọng ý kiến của họ và sự phản hồi trong giao tiếp.
GV chuẩn bị sẵn 2 mẩu tin. GV chia học sinh thành 2 hàng dọc rồi đưa mẩu tin cho học sinh đầu tiên của 2 hàng dọc đọc rồi nói lại nội dung mẩu tin cho bạn kế tiếp. Yêu cầu nói nhỏ vào tai người kế tiếp để họ đủ nghe mà người khác không nghe thấy. Người nghe không được hỏi lại. Cách làm thực hiện tương tự cho đến người nhận tin cuối cùng và yêu cầu nói lại tin đó cho cả nhóm nghe. GV cho học sinh so sánh với nội dung thông tin ban đầu rồi thảo luận câu hỏi: 1. Em nghĩ gì
sau khi thực hiện trò chơi này? 2. Người nhận thông tin một chiều gặp những khó khăn nào ? 3. Làm thế nào để truyền thông tin chính xác ?
Bài tập 10 : Ngôn ngữ cử chỉ.
Yêu cầu học sinh lựa chọn đâu là ngôn ngữ cử chỉ Tích cực Tiêu cực trong giao tiếp:
Nhắm mắt khi nói ------------ ------------ Mỉm cười ------------ ------------ Ngáp ----
-------- ------------ Cau mày ------------ ------------ Duy trì liên hệ bằng mắt ------------ -
----------- Nhìn xuống khi đang nói chuyện ------------ ------------ Khoanh tay ----------
-- ------------ Ngả người về phía người nói ------------ ------------ Uể oải ------------ -----
------- Thỉnh thoảng gật đầu ------------ ------------ Nhìn hướng khác khi người khác đang nói với mình ------------ ------------ Bắt tay chặt (nữ) ------------ ------------ Bắt
tay chặt (nam) ------------ ------------ Gác chân lên bàn ------------ ------------ Nhai há
miệng/ ợ hơi ------------ ------------ Vắt chéo chân ------------ ------------ Tay hoạt động
khi nói ------------ ------------ Chỉ ngón tay ------------ ------------ Vỗ vai/ lưng -----------
- ------------
Bài tập11: Khoảng cách trong giao tiếp.
Bài tập này có tác dụng: Giúp khám phá các thông điệp không lời qua khoảng cách; Giúp xác định mức độ thoải mái hoặc khó chịu qua khoảng cách; Giúp ghi nhận các thông tin khác nhau tùy theo khoảng cách; Quan sát để thấy khoảng cách có thể thuận lợi hoặc không thuận lợi như thế nào cho chất lượng quan hệ giao tiếp.
GV chọn 2 học sinh ( A và B ), cho các em đứng đối diện nhau, cách ít nhất là 2 mét - A tiến từ từ đến B ( B bất động ). Mỗi lần bước tới vài bước thì ngừng và cho biết cảm giác( thoải mái hay không ) và ngừng lại ở khoảng cách mà A cho là tiện nhất. A tiếp tục tiến gần B, vượt qua vùng thân mật ( < 0,4m ) và ngừng trước B cách vài cm. Ghi nhận ở khoảng cách đó : hơi ấm cơ thể, mùi, cái nhìn bị méo mó, hơi thở, ghi nhận ý tưởng, cảm xúc lúc đó. Giữ khoảng cách trong 30 giây, trở lại vị trí cũ. Đổi vai : A bất động và B tiến từ từ đến A, A và B đều nhắm mắt lại. Mỗi người tưởng tượng đang ở trong một cái bong bóng, lớn nhỏ tùy mình và tiến gần nhau một lần nữa và chỉ ngừng khi hai bong bóng đụng nhau ( theo tưởng tượng của hai người ).Bạn so sánh hai khoảng cách đã thực hiện. A và B cách nhau hai mét. Một người nhắm mắt và bất động. Người kia tiến tới từ từ. Khi người nhắm mắt cảm nhận người kia đến ở khoảng cách thích hợp và an toàn thì ngăn lại và mở mắt ra. Tiếp đó, đổi vai.
Bài tập 12 : Nhìn khi giao tiếp.
GV mời hai học sinh : một người nhìn người kia trong một khoảng thời gian, lưu ý cả hai là lúc nhìn và lúc bị nhìn, cố gắng ghi nhận cảm tưởng, cảm xúc khi nhìn và bị nhìn. Sau đó ca hai người nhắm mắt lại trong 5 phút, cố liên hệ sự kiện này có gợi cho mỗi người trải nghiệm nào không, có thể tích cực hoặc tiêu cực. Bài tập lập lại bằng cách đổi vai hoặc mời hai học sinh khác. Yêu cầu học sinh nói lên cảm nhận.
Bài tập 13 : Kỹ năng lắng nghe (Bài tập được thực hiện tại lớp).
GV yêu cầu học sinh lắng nghe những tiếng động xung quanh mình hoặc từ xa vọng đến, ghi lại tất cả các tiếng động nghe được ấy trên tờ giấy nháp trong khoảng thời gian 60 giây. GV sẽ chọn hai học sinh ngồi gần nhau và đọc to kết quả ghi lại tiếng động nghe được của hai người ấy. GV so sánh hai kết quả và thông thường là không giống nhau hoàn toàn. GV tiếp tục chọn hai người khác ngồi gần nhau và kết quả cũng khác nhau. GV gọi học sinh nhận xét tại sao lại kết quả của hai người khác nhau ? ( Con người khi nghe có khuynh hướng chọn lọc. Dù có chú ý, nhưng tiếng động không được chọn sẽ không vào và não không ghi nhận tiếng động đó => khi nghe thầy cô giảng bài hoặc trong giao tiếp phải biết chon lọc thông tin phù hợp ).
Bài tập 14 : Kỹ năng truyền đạt và lắng nghe.
GV phát cho năm học sinh tình nguyện lên đứng trước lớp theo hàng ngang, mỗi người cầm một tờ giấy ( loại giấy đánh máy A4 ) và họ cầm tờ giấy thẳng đứng. Họ sẽ thực hiện theo lời yêu cầu của GV. GV bắt đầu nói rõ ràng, không nhanh, không chậm : “Xếp đôi tờ giấy từ trên xuống dưới, xé bỏ góc trên bên phải, sau đó xếp đôi tờ giấy 1 lần nữa từ phải sang trái, xé góc dưới bên trái và xếp đôi tờ giấy lần nữa từ trên xuống xé góc trên bên phải”. GV cho năm học sinh này mở tờ giấy của họ ra. Kết quả là những ai nghe đúng thì hình dáng tờ giấy còn lại sẽ giống nhau. Kinh nghiệm cho thấy tỷ lệ người nghe không như nhau thường chiếm số cao hơn. GV có thể thực hiện bước 2 bài tập tại lớp theo một cách khác như sau : GV chọn 10 học sinh chia thành từng nhóm 2 người, quay lưng vào nhau, chỉ có một người nhìn thấy GV. Mỗi nhóm chuẩn bị một tờ giấy trắng. Người không nhìn thấy GV sẽ cầm tờ giấy này. Người nhìn thấy GV có nhiệm vụ quan sát và nói lại cho người kia những gì mình thấy được, để người kia cứ thế mà làm. Không được phép hỏi lại. GV cầm tờ giấy, gấp theo bất cứ hình gì mình thích, làm chậm, không được nói, để học sinh có nhiệm vụ quan sát thấy được. Sau đó GV sẽ xé một góc của tờ giấy đã gấp. Xong yêu cầu các nhóm đưa tờ giấy của nhóm ra, các tờ giấy nhất định không hoàn toàn giống nhau. Trò chơi này giúp người học nhận thức được mối quan hệ của việc truyền thông điệp và nhận thông điệp.
Bài tập 15 : Kỹ năng phản hồi tích cực.
GV phát cho mỗi học sinh một tờ giấy nhỏ và các em sẽ ghi vào đó một câu tâm sự buồn (học sinh không cần phải ghi tên mình trên tờ giấy). Học sinh ghi xong thì GV thu lại tất cả các tờ giấy và phát lại theo tình cờ cho mỗi học sinh một tờ giấy của người khác. Dựa theo câu nói tâm sự buồn ghi trên tờ giấy, học sinh ghi tiếp theo câu nói phản hồi tích cực của mình, thể hiện sư thấu cảm, hiểu được cảm xúc bên trong của người tâm sự. Kết quả của bài tập thực hành thường
gây bất ngờ ( thiên về phê phán và khuyên nhiều hơn là phản hồi tích cực – lý do là do thói quen giao tiếp ).
Bài tập 16 : Tìm hiểu vai trò được thể hiện trong nhóm.
GV nêu trên bảng 8 khuynh hướng thường có khi thảo luận nhóm ở từng thành viên của nhóm. GV giải thích mỗi vai có những khuôn mẫu hành vi như sau:
1. Vai người lãnh đạo: Mở đầu, đặt vấn đề - Mời tham gia ý kiến - Hòa giải nếu có mâu thuẫn - Tóm lược các ý kiến – Lựa chọn sự nhất trí các ý kiến - Kết thúc buổi thảo luận.
2. Vai người giúp đỡ: Hỗ trợ người lãnh đạo - Giải thích, cung cấp thông tin - Giúp nhóm theo hướng của người lãnh đạo.
3. Vai người theo đuôi: Ít chủ động nêu ý kiến riêng, chỉ chờ người khác nói xong thì ủng hộ - Thường thay đổi ý kiến theo người khác - Có theo dõi cuộc thảo luận..
4. Vai người lệ thuộc: Thụ động hơn người theo đuôi - Có theo dõi cuộc thảo luận - Không tham gia ý kiến - Phó thác cho người khác quyết định.
5. Vai người không quan tâm: Ít theo dõi buổi thảo luận - Làm việc riêng, hoặc nhìn về hướng khác - Không tham gia ý kiến.
6. Vai người thắc mắc, gây rối: Hay đặt những câu hỏi, thắc mắc lặt vặt hoặc lật ngược vấn đề - Có khi mở rộng đề tài, lạc đề làm nhóm mất thời gian, gây khó chịu cho nhóm.
7. Vai người gây hấn: Dạng người bất mãn hoặc không thích 1-2 nhóm viên nào đó trong nhóm - Hay chê bai ý kiến của người mình không thích - Nói to, vung tay, đứng lên ngồi xuống.
8. Vai người cạnh tranh: Khuyến khích sự tham gia của nhóm - Chủ động tham gia ý kiến - Có khi tóm lược các ý kiến hoặc lựa chọn sự nhất trí các ý kiến của buổi thảo luận.
GV mời 8 học sinh và giao vai cho mỗi người qua tờ giấy có hướng dẫn cách thể hiện vai như phần trên. Mỗi người chỉ biết vai của mình. Nhóm 8 người này sẽ họp tại một bàn giữa lớp và các học sinh khác ngồi xung quanh quan sát. GV cho một đề tài để nhóm thảo luận, ví dụ : “Thảo luận một kế hoạch tổ chức đi picnic ở ngoại thành” - GV dành khoảng 10 - 15 phút cho cuộc thảo luận, không cần phải đợi xong cuộc thảo luận. GV mời các học sinh khác cho biết vai đảm nhận của từng người trong nhóm thảo luận và giải thích dựa vào những chi tiết nào trong hành vi mà mình đã nhận diện được vai của họ. ( Điều cần lưu ý là thực tế có người sắm vai bị lôi cuốn vào cuộc thảo luận lại quên vai của mình, đó là hiện tượng bình thường của sự biến chuyển vai trò trong nhóm. Vai trò khó mà giữ cố định và chúng ta thường có khi gây hấn một chút, rồi trở thành lệ thuộc, không quan tâm, rồi có khi cạnh tranh một tí. Trong giao tiếp phải linh hoạt nhưng phải hướng tới mục đích của mình ).
Bài tập 17 : Sự tương tác giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo.
GV mời hai học sinh: một người đóng vai một cái gương soi và người kia đứng trước gương thực hiện nhiều động tác và cái gương phải làm theo. Cho lớp nhận xét, rút ra kết luận: lãnh đạo một chiều, cấp thừa hành làm theo máy móc như cái gương. GV mời hai học sinh khác ( cùng giới tính), đứng đối mặt, tay hai người chập vào nhau, một người chủ động làm động tác trong khi vẫn giữ tay người kia, người kia thụ động nương theo. Xong GV hỏi cảm nhận của hai học sinh này : người chủ động làm động tác có cảm giác bị người thụ động điều khiển trở lại và người thụ động cũng có cảm giác có lúc họ điều khiển hướng động tác. Đó là tác động qua lại (sự tương tác) khi cùng làm việc chung. GV mời hai học sinh lên bảng và cả hai cùng cầm một viên phấn. GV yêu cầu họ cùng vẽ một cái hình nào đó ( Tất nhiên, muốn vẽ được thì cả hai phải thỏa thuận nhau là vẽ hình gì. Nhưng khi thực hiện thì có lúc người này điều khiển, có lúc người khác điều khiển. Trong thực tế, người lãnh đạo luôn bị chi phối bởi sự phản hồi của cấp dưới của mình - người bị lãnh đạo ).
PHỤ LỤC 7
PHƯƠNG PHÁP KHẢO SÁT VÀ CÁCH XỬ LÝ SỐ LIỆU
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
Nhằm làm rõ lịch sử vấn đề nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài, xây dựng bộ công cụ điều tra, chúng tôi đã phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá những quan điểm cũng như các công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
2. Phương pháp trắc nghiệm.
Đề tài sử dụng bộ trắc nghiệm giao tiếp của V.P. Dakharôv gồm 80 câu hỏi để nghiên cứu KNGT của học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang.
* Trắc nghiệm gồm 80 câu hỏi chia thành 10 nhóm KN, cụ thể như sau: 1.Kỹ năng tiếp xúc, thiết lập các mối quan hệ, bao gồm các tình huống:
1, 11, 21, 31, 41, 51, 61, 71.
2.Kỹ năng cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng trong khi tiếp xúc, bao gồm các tình huống: 2, 12, 22, 32, 42, 52, 62, 72.
3.Kỹ năng lắng nghe đối tượng giao tiếp, bao gồm các tình huống: 3, 13, 23, 33, 43, 53, 63, 73.
4.Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi, bao gồm các tình huống: 4, 14, 24, 34, 44, 54, 64, 74.
5.Kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác, bao gồm các tình huống: 5, 15, 25, 35, 45, 55, 65, 75.
6.Kỹ năng diễn đạt cụ thể, dễ hiểu, bao gồm các tình huống: 6, 16, 26, 36, 46, 56, 66, 76.
7.Kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp, bao gồm các tình huống: 7, 17, 27, 37, 47, 57, 67, 77.
8.Kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp, bao gồm các tình huống: 8, 18, 28, 38, 48, 58, 68, 78.
9.Kỹ năng tự chủ, điều chỉnh quá trình giao tiếp, bao gồm các tình huống: 9, 19, 29, 39, 49, 59, 69, 79.
10.Sự nhạy cảm trong giao tiếp, bao gồm các tình huống: 10, 20, 30, 40, 50, 60, 70, 80.
* Các chỉ số và thang đánh giá từng KNGT của học sinh.
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, yêu cầu phát triển KNGT cho học sinh bậc THPT, căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh người dân tộc thiểu số, chúng tôi lựa chọn các chỉ số đánh giá KNGT theo bộ trắc nghiệm của V.P. Dakharôv như sau:
- Các chỉ số của KN1:
+ Mức độ dễ dàng, tự nhiên trong thiết lập mối quan hệ giao tiếp.
+ Mức độ mạnh dạn nhìn thẳng vào đối tượng giao tiếp khi tiếp xúc với
họ.
+ Mức độ niềm nở trong lần giao tiếp đầu tiên.
+ Mức độ dễ dàng khi mở đầu quá trình giao tiếp.
+ Mức độ nhanh chóng thích nghi, thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh
giao tiếp mới hoặc điều kiện khó khăn khi tiếp xúc.
+ Mức độ sẵn sàng tiếp xúc với người lạ.
+ Mức độ tự nhiên khi tiếp xúc với tập thể.
+ Mức độ nhanh chóng tạo ra sự gần gũi thân thiện trong giao tiếp với đối tượng chưa quen biết.
- Các chỉ số của KN2 :
+ Mức độ hài hoà trong khi phối hợp nhu cầu cá nhân với nhu cầu đối tượng giao tiếp.
+ Mức độ quan tâm đến nhu cầu sở thích của bạn bè khi tiếp xúc.
+ Mức độ kịp thời, hợp lý khi quan tâm đến việc riêng của đối tượng giao tiếp.
+ Mức độ thường xuyên tìm hiểu ý định của đối tượng giao tiếp.
+ Mức độ thường xuyên chú ý tới những việc mà người xung quanh thường quan tâm.
+ Mức độ hợp lý của thời gian mà mình dành cho việc quan tâm đến tất cả công việc của đối tượng giao tiếp đang làm.
+ Mức độ hiểu biết mối quan hệ giữa mong muốn của đối tượng giao tiếp và hiệu quả của việc tiếp xúc với họ.
+ Mức độ cố gắng tìm hiểu nhu cầu của đối tượng giao tiếp khi tiếp xúc với họ.
- Các chỉ số của KN3:
+ Mức độ chú ý lắng nghe đối tượng giao tiếp khi tiếp xúc với họ.