rộng hơn, đội ngũ công chức bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức có tính chất công quyền.
Ở Pháp, đội ngũ công chức là tập hợp những người có mục đích chức năng nhiệm vụ như nhau hoạt động trong cơ quan nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong các công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện.
Ở Trung Quốc, một nước theo thể chế Cộng hòa dân chủ nhân dân, chế độ một viện, khái niệm đội ngũ công chức nhà nước dùng để chỉ hệ thống những người công chức đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ cũng chung mục đích trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, từ nhân viên phục vụ. Gồm hai loại: Đội ngũ công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính nhà nước, được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều lệ đội ngũ công chức và Luật Tổ chức chính quyền các cấp; và đội ngũ công chức nghiệp vụ, là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ đội ngũ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số đội ngũ công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật.
Ở Mỹ, một nước có nền kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển rất mạnh, có ảnh hưởng đến toàn thế giới. Đội ngũ công chức Mỹ bao gồm tất cả những nhân viên trong ngành hành chính của Chính phủ, kể cả những người được bổ nhiệm về chính trị như: Bộ trưởng, thứ trưởng, trợ lý bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy nhiên, khái niệm đội ngũ công chức trong diện điều chỉnh của Luật đội ngũ công chức lại không bao gồm những đội ngũ công chức được bổ nhiệm về chính trị cùng chung mục đích thực hiện chức năng nhiệm vụ chính phủ giao. Đặc điểm của đội ngũ công chức Mỹ là mang tính thống nhất, tính hệ thống hoạt động trong bộ máy công quyền; việc tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ công chức chủ yếu theo công trạng thực tế, đội ngũ công chức có điều kiện phát triển sức mạnh tổng hợp cùng hỗ trợ chia sẽ lẫn nhau.
Ở Cộng hòa liên bang Đức, khái niệm đội ngũ công chức Đức khá rộng bao gồm những lực lượng nhân viên làm việc trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ
thuật giáo dục và nghiên cứu khoa học quốc gia, nhân viên công tác trong các doanh nghiệp công ích do nhà nước quản lý, các nhân viên, quan chức làm việc trong các cơ quan chính phủ, giáo sư đại học, giáo viên trung học, tiểu học, bác sĩ, hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa. Đây là đội ngũ được Cộng hòa liên bang đức quan tâm, đào tạo bồi dưỡng để đội ngũ ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Ở Việt Nam, quan niệm đội ngũ công chức được hình thành, gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về đội ngũ công chức là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 1 quy định: đội ngũ công chức là những lực lượng công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng để đảm nhận một công việc trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Đội ngũ này ngày càng lớn mạnh, có tính tổ chức cao, tính tự giác trong thực hiện nhiệm vụ với mục đích phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân tuân thủ những quy định của luật công chức đã ban hành.
Thực hiện công cuộc đổi mới, trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước, quan niệm đội ngũ công chức được đề cập một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Đó là lực lượng hùng hậu, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, nhân dân giao phó, ngày càng phát triển toàn diện về các mặt để xứng đáng là một đội quân hùng hậu, đáng tín cậy của đất nước và của người dân trong quá trình CNH, HĐH ngày càng diễn ra sâu sắc.
2.1.1.3. Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam
Từ quan niệm đội ngũ công chức nói chung, chúng ta cần nghiên cứu để làm rõ quan niệm đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước. Theo quan niệm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc thì đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là lực lượng thay mặt nhà nước thực hiện chức năng nhà nước bao gồm công việc tiếp nhận, bảo quản, phân phối, quản lý có năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, thái độ phục vụ tốt, thể hiện là một đội ngũ công chức có tiềm năng phát triển về số lượng và chất lượng. Nhưng ở Nhật quan niệm đội ngũ công chức ngành
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài:
- Những Vấn Đề Cần Phải Được Tiếp Tục Nghiên Cứu:
- Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam
- Sử Dụng Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước
- Nhu Cầu Đào Tạo, Bồi Dưỡng Công Chức Hcnn Được Xác Định Trên Cơ Sở Phân Tích Hai Yếu Tố Cơ Bản.
Xem toàn bộ 243 trang tài liệu này.
dự trữ nhà nước trước hết là một đội ngũ công chức nhà nước, nhưng họ đảm nhận chức năng, nhiệm vụ khác biệt theo chuyên môn, ngành nghề, kỹ thuật, quản lý có tính đặc thù để nhằm thực hiện mục đích và mục tiêu của việc dự trữ nhà nước. Tuy nhiên nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đều cho rằng “đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là lực lượng được đào tạo chuyên ngành về quản lý dự trữ của nhà nước, đây là công việc có tính bắt buộc đối với của mọi quốc gia” hoặc “đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là lực lượng trực tiếp, gián tiếp thực thi các chức năng nhà nước trong việc quản lý các tài sản, hàng hóa của nhà nước trong quá trình dự trữ. Đội ngũ này thực hiện quản lý và điều hành, điều tiết hàng hóa, tài sản nhà nước theo yêu cầu của Chính phủ, các địa phương và người dân nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đòi hỏi trong quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước theo quy định của pháp luật”.
Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước được nhà nước giao trọng trách gắn liền trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn trong quá trình thực hiện chức năng quản lý về lĩnh vực này. Được đảm bảo quyền lợi trên cơ sở cống hiến để tạo động lực thúc đẩy đội ngũ này ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đòi hỏi. Đội ngũ công chức ngành này hoạt động thông qua nền công vụ hành chính nhà nước và đội ngũ này là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ cấp Tổng cục đến Cục và Chi cục. Đồng thời họ có năng lực thực thi pháp luật, thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội.
Sản phẩm lao động của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là phong cách, thái độ, hiệu quả phục vụ đất nước nói chung và các đối tượng nói riêng dựa vào các đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quyết định quản lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý, phân phối nguồn lực dự trữ nhà nước theo đúng tiêu chí đề ra. Mặt khác, đội ngũ này nếu so với đội ngũ các ngành khác xét về số lượng còn khiêm tốn, nhưng đất nước càng phát triển đòi hỏi đội ngũ này phát triển để đáp ứng, nhất là ở nước ta diễn biến khí hậu thời tiết luôn xẩy ra bất thường, tình trạng thiên tai, bão lụt, hạn hán, mất mùa... thường xuyên đe doạ, đòi hỏi ngành dự trữ phải đáp ứng yêu cầu thực tế không chỉ hôm nay mà còn cả ngày mai.
Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước được nhà nước trao quyền để thực thi công vụ, đồng thời họ có bổn phận phục vụ người dân, phục vụ xã hội và chịu những ràng buộc nhất định liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu trách nhiệm hoặc phải bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, ra quyết định hành chính làm tổn hại lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
2.1.2. Đặc điểm của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam
Ngoài đặc điểm chung của đội ngũ công chức nhà nước thì đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có đặc điểm sau:
Một là, là lực lượng trực tiếp, gián tiếp thực hiện các chức năng quản lý của nhà nước về hàng hóa và tài sản, của cải công đã và đang dự trữ để đáp ứng yêu cầu của đất nước và người dân nhằm đảm bảo sự ổn định và cung cấp kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn đang đặt ra trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, do đó đội ngũ này có đặc điểm là một đội ngũ được đào tạo trình độ theo chuẩn mực riêng. Đó là những người được đào tạo về lĩnh vực quản lý nhà nước trong ngành dự trữ quốc gia. Đặc điểm này phản ánh tính chuyên môn nghiệp vụ, khả năng quản lý, điều tiết, điều hành kịp thời trong điều kiện, môi trường cấp bách mà thực tiễn đòi hỏi.
Hai là, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có đặc điểm là những người hoạt động trong các cơ quan quản lý về dự trữ nhà nước từ Trung ương đến địa phương theo một hệ thống dọc gắn liền với địa bàn lãnh thổ ở các vùng miền để đảm bảo sự cung cấp hàng hóa, tài sản của cải đến cho các vùng gặp khó khăn do thiên tai gây ra một cách kịp thời và nhanh chóng, là sự phối hợp hệ thống của đội ngũ này với các cấp chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ. Quá trình thực hiện chức năng của nhà nước về lĩnh vực này cho thấy đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước không chỉ trực thuộc Trung ương mà có sự giám sát của chính quyền địa phương. Mặt khác, đội ngũ này có đặc điểm vừa bảo quản hàng hóa, tài sản của nhà nước không bị hư hỏng, vừa phải cung cấp những hàng hóa tài sản đó một cách kịp thời đến tay người dân trong trường hợp khó khăn hoạn nạn để giúp họ vượt qua trong thời gian sớm nhất.
Ba là, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có đặc điểm bất kì trong tình huống nào cũng không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào bên ngoài. Bởi vì họ là đội ngũ không những đào tạo về cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và là lực lượng hạt nhân cơ bản của nền tài chính quốc gia trong lĩnh vực dự trữ. Do vậy, hơn ai hết đội ngũ này phải thực hiện nến nơi đến chốn, không được chuyển giao cho bất kì tổ chức nào, trong quá trình bảo vệ và điều tiết hàng hóa của cải vật chất nhà nước cho người dân và các đối tượng gặp khó khăn. Mặc dù phát triển cùng với sự phát triển của đất nước nhưng việc coi trọng trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao là đặc biệt quan trọng, hay nói cách khác là những công việc có tính chất chi phối, tạo hoạt động trong lĩnh vực dự trữ của nhà nước. Là lực lượng lao động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao, thực hiện trách nhiệm của Nhà nước để điều hành, quản lý, cấp phát các sản phẩm, hàng hóa tại các quốc gia. Với đặc điểm đó, đội ngũ này đòi hỏi phải có tính chất chuyên nghiệp trong quá trình thực hiện công vụ một cách thường xuyên, liên tục, có trình độ chuyên môn và được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước nói chung, nghiệp vụ quản lý ngành dự trữ nhà nước nói riêng .
Bốn là, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có đặc điểm hoạt động tương đối ổn định, có tính kế thừa, nhưng luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng. Khác với công chức thuộc các lĩnh vực khác, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam hoạt động ổn định, ít chịu biến động. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng tạo môi trường dễ nảy sinh sự phụ thuộc, thiếu tính năng động, sáng tạo, đồng thời cơ chế này cũng dễ tạo ra những người chỉ biết làm theo mệnh lệnh, thiếu tính chủ động. Hiện nay, xã hội không ngừng phát triển, đối tượng được điều tiết hàng hóa tài sản của nhà nước được mở rộng, nhu cầu ngày càng cao trong khi đó khả năng hàng hóa không đáp ứng được. Trên thực tế nguồn dự trữ của nhà nước có hạn, dẫn đến đội ngũ này nhiều khi băn khăn day dứt, phần lo trách nhiệm chưa hoàn thành, chưa đáp ứng nhu cầu người dân đòi hỏi, phần thì mong nguồn dự trữ nhà nước ngày càng dồi dào thêm nhưng thực tế nguồn này có hạn chứ không phải vô hạn.
Năm là, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có đặc điểm phát triển theo một hệ thống từ Trung ương đến địa phương diễn ra thường xuyên, trên phạm vi rộng lớn. Đội ngũ này được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến các vùng Bắc, Trung, Nam để thực hiện nhiệm vụ bảo quản và cấp phát tài sản nhà nước, hoạt động chủ yếu là lúc thời tiết có sự biến động cũng như các hoạt động đột xuất đang diễn ra. Điều này đòi hỏi đội ngũ này phải thường xuyên theo dõi dự đoán những tình huống xấu xảy ra để kịp thời đáp ứng yêu cầu cấp phát cứu trợ cho đối tượng gặp khó khăn trong hoàn cảnh do thời tiết khách quan gây ra. Khi thời tiết thuận hòa thì sự lo lắng được giảm xuống, ngược lại khi thời tiết bất thường thì sự lo lắng lại tăng lên. Đây là một đặc điểm cơ bản của đội ngũ này trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Tất cả các hoạt động đó đều liên quan hàng ngày và trực tiếp hoặc gián tiến đến cuộc sống của tất cả mọi người dân, mọi đối tượng , đòi hỏi đội ngũ công chức giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản lý, điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả.
2.1.3. Vai trò của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam
Trong quá trình phát triển đất nước, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam có vai trò rất lớn trong quá trình thực hiện chức năng của nhà nước. Là công cụ thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, vai trò của đội ngũ này được thể hiện như sau:
- Là công cụ thực hiện đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, và nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, đảm bảo cho nền kinh tế và người dân được cung cấp và hỗ trợ kịp thời khi gặp khó khăn, hoạn nạn cũng như tình huống bất trắc xảy ra. Nhờ vậy các trường hợp thiệt hại do bão lũ, hạn hán, cũng như mất mùa thì được nhà nước hỗ trợ kịp thời để đảm bảo ổn định cho người dân tiếp tục hoạt động không bị gián đoạn. Ý nghĩa vai trò này thể hiện trong quá trình thực tiễn đang diễn ra ở đất nước ta nói chung và địa phương nói riêng. Thông qua việc hỗ trợ, cứu trợ, trợ cấp đã giúp cho người dân nhanh chóng vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống cũng như ổn định về mặt tinh thần, tâm lý, điều này thực tế đã thể hiện rất rõ nét trong những đợt mưa bão cũng như dịch bệnh gây thiệt hại cho người dân.
- Thể hiện bản chất của nhà nước là do nhân dân, tất cả quyền lợi là của người dân, đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị để giúp cho người dân hiểu rằng nhà nước của dân bao giờ cũng quan tâm chăm sóc cho người dân trong bất cứ trường hợp nào. Từ đó cho thấy bản chất nhà nước luôn thể hiện chức năng của mình trong việc đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ồn định, giúp người dân vượt qua những khó khăn để trở lại cuộc sống bình thường. Thông qua xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, hàng hóa, đảm bảo cho sự phát triển nền kinh tế diễn ra một cách bình thường, có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên cơ sở mục tiêu chung chương trình đã đề ra, đòi hỏi đội ngũ này phải đẩy mạnh cải cách hành chính, trước hết là xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà trong quá trình phân bổ, cấp phát nguồn lực dự trữ quốc gia, xây dựng thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, mimh bạch.
- Đối với nước ta, hiệu lực, hiệu quả của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ này. Ngày nay, trong công cuộc cải cách hành chính, để có một nền hành chính công đạt được tiêu chí của một xã hội văn minh, một nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, thực sự phục vụ nhân dân và xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, thực hiện công bằng, dân chủ, không thể không coi trọng, nâng cao chất lượng mọi mặt của nhóm cán bộ, công chức hành chính. Họ chính là lực lượng nòng cốt để thực hiện chức năng công quản và công bộc của Nhà nước.
- Vai trò của đội ngũ công chức nhà nước thể hiện qua bốn mối quan hệ: Một là, với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Hai là, với bộ máy tổ chức lãnh đạo quản lý;
Ba là, với công việc;
Bốn là, với quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực trong nền công vụ, đội ngũ này đã trực tiếp tham gia đóng góp vào quá trình xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về lĩnh vực dự trữ quốc gia. Với chức năng cơ bản là thực thi công vụ, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là người đem chính sách của Đảng, Nhà nước với vị trí vai trò như là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân.
- Hoạt động của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là hoạt động điều tiết các khoản cấp phát cho mọi đối tượng trong quá trình phát triển. Đó chính là hoạt động điều tiết thể hiện bản chất của nhà nước. Vai trò hiệu lực của đội ngũ này trong bộ máy nhà nước và của hệ thống chính trị xét cho cùng là góp phần đưa các chính sách của nhà nước vào cuộc sống.
- Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng điều tiết hỗ trợ, cứu trợ của nhà nước trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước đầy đủ phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn và năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao chính là lực lượng nòng cốt, luôn đóng vai trò chủ yếu trong thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
- Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là một trong những lực lượng nòng cốt trong hệ thống chính trị, tiếp thu nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt những yêu cầu thực tiễn của cuộc sống để phản ảnh kịp thời với cấp trên và cung cấp hàng hóa cho các đối tượng, giúp cho Đảng và Nhà nước thực hiện chủ trương, chính sách sát với thực tiễn.
2.1.4. Phân loại công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam
Việc phân loại công chức là yêu cầu tất yếu của công tác quản lý nguồn nhân lực. Phân loại công chức ngành dự trữ nhà nước cũng tuân theo các tiêu chí phân loại chung của cả đội ngũ công chức. Phân loại công chức ngành dự trữ nhà nước giúp cho việc xây dựng quy hoạch đào tạo công chức đúng đối tượng theo yêu cầu nội dung, công tác, đưa ra những căn cứ cho việc xác định biên chế một cách hợp lý và là tiền đề cho việc đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc tuyển dụng công chức, xác định cơ cấu tiền lương hợp lý. Phân loại công chức còn giúp cho