chính sách nhằm phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới...
Thứ tư, các tác giả đã đánh giá được trình độ năng lực của đội ngũ công chức, đánh giá được thực trạng quá trình tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu mới; làm rõ những thành tựu đạt được của đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước Việt Nam nói chung về trình độ năng lực thực tiễn cũng như quá trình tổ chức thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ quy định; phân tích và đánh giá những hạn chế, yếu kém về chất lượng đội ngũ công chức nói chung về vấn đề chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra như: trình độ nghiệp vụ vẫn còn thấp, khả năng đảm nhận những công việc thuộc chức năng nhiệm vụ còn bị hạn chế, phương pháp quản lý quá trình thực hiện vẫn còn thiếu tính khoa học và nghệ thuật, dẫn đến hiệu quả thấp.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy:
Thứ nhất, phần lớn các công trình nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nguồn nhân lực nói chung, đội ngũ công chức nói chung trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước. Chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước. Có thế nói, một số vấn đề lý luận nhận thức rất cơ bản như khái niệm phát triển đội ngũ công chức; xây dựng các tiêu chí phát triển đội ngũ công chức nói chung, ngành dự trữ nhà nước nói riêng thì chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể đến vấn đề này.
Thứ hai, khi đánh giá về thực trạng phát triển nguồn nhân lực nói chung, phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước nói riêng việc đánh giá thường dựa trên các thông tin từ báo chí, internet, các công trình mang tính lý thuyết và chủ yếu mới chỉ dừng lại ở những nhận định, đánh giá mang tính định tính, thiếu những số liệu thống kê đầy đủ... Có thể nói, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ và có hệ thống về phát triển đội ngũ công chức nói chung, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước nói riêng. Trong khi đó, để đảm bảo tính chính xác của các nhận định, đánh giá về vấn đề nghiên cứu, cần kết hợp nghiên cún lý luận với khảo sát thực tế cũng như điều tra
xã hội học, có hệ thống số liệu đầy đủ và chính xác. Đây chính là điểm hạn chế trong các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của Luận án.
Thứ ba, trong một số công trình nghiên cửu cũng nêu được những đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm phát triển nguồn nhân lực nói chung, phát triển đội ngũ công chức nói chung, nhưng nhìn chung còn tản mạn, nặng về định tính, chưa thực sự bảo đảm tính hệ thống của các giải pháp tổng thể từ khâu nhận thức, xây dựng, ban hành thể chế cho đến tố chức thực hiện và các nguồn lực bảo đảm việc thực hiện thành công các cơ chế, chính sách.
Tóm tại, nội dung các nghiên cứu của các tác giả nói trên liên quan đến đề tài chưa đầy đủ và chưa giải quyết những vấn đề mang tính hệ thống và cụ thể về phát triển đội ngũ công chức nói chung, phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, những công trình và các đề tài nghiên cứu được đề cập ở trên của các tác giả trong thời gian qua đã có nhiều đóng góp quan trọng về mặt khoa học để cho tác giả luận án tiếp cận, nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho công trình nghiên cứu của tác giả luận án.
1.2.2. Những vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam - 2
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài:
- Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam
- Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam
- Sử Dụng Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước
Xem toàn bộ 243 trang tài liệu này.
Việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Luận án “Phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước Việt Nam” là rất cần thiết, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học, đề xuất được những giải pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam trong việc phát triển đội ngũ công chức nói chung, phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước nói riêng ở nước ta hiện nay. Nội dung này không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trong nước và ngoài nước.
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được, những vấn đề về phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam còn là những vấn đề lớn, phức tạp, mới, cần tập trung nghiên cứu. Đối với phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam có thể nêu ra một số vấn đề như sau:
Một là, phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam là vấn đề tuy không mới nhưng việc nghiên cứu nó chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó dẫn đến tình trạng phát triển đội ngũ công chức trong quá khứ, hiện tại ở nước ta vẫn còn hạn chế yếu kém do đó chưa phát huy được năng lực trình độ phẩm chất của đội ngũ này trong quá trình thực hiện chức năng của ngành dự trữ nhà nước mà Luật Dự trữ Quốc gia đã quy định. Hơn nữa việc nghiên cứu phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam dưới gốc độ quản lý công là vấn đề còn mới, đòi hỏi phải dành nhiều thời gian nghiên cứu một cách công phu.
Thứ hai, đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực nói chung, phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước nói riêng ở những góc độ khác nhau, một số tác giả đã đưa ra những quan điểm của Đảng về mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ công chức nói chung trong công cuộc đổi mới đất nước và sự nghiệp đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu đó, tiềm năng của phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam với tư cách là một nguồn lực quan trọng của quá trình đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay chưa được đề cập nghiên cứu có tính hệ thống logic.
Cho đến thời điểm này chưa có một chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống tương ứng về vấn đề phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam mà chỉ dừng lại những báo cáo, tham luận, những bài đăng tạp chí, các công trình nghiên cứu chưa sâu sắc. Vì vậy, tác giả mong muốn làm sáng tỏ vấn đề phát triển đội ngũ công chức nhà nước trong ngành dự trữ nhà nước ở Việt Nam dưới góc độ quản lý công.
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC NGÀNH DỰ TRỮ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Quan niệm chung về công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam
2.1.1. Công chức và công chức ngành dự trữ nhà nước
2.1.1.1.Công chức
Khái niệm công chức gắn liền với sự ra đời công chức ở các nước tư bản phương Tây. Từ nửa cuối thế kỷ XIX [73, tr.9], tại nhiều nước đã thực hiện chế độ công chức thời gian tương đối lâu, công chức được hiểu là những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [73, tr.9]. Trên thực tế, mỗi quốc gia cũng có quan niệm và định nghĩa khác nhau về công chức.
Cộng hoà Pháp định nghĩa: “Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức địa phương thuộc các hội đồng thuộc địa phương quản lý”. [76, tr.228]
Ở Nhật Bản, công chức được phân thành hai loại chính, gồm công chức nhà nước và công chức địa phương: “Công chức nhà nước gồm những người được nhậm chức trong bộ máy của Chính phủ trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường công và bệnh viện quốc lập, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh được lĩnh lương của ngân sách nhà nước. Công chức địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa phương”. [76, tr.156]
Ở Trung Quốc, khái niệm công chức được hiểu là: "Công chức nhà nước là những người công tác trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục vụ. Công chức gồm hai loại:
+ Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực nhà nước. Các công chức này bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều hành của Hiến pháp, Điều lệ công chức và Luật tổ chức của chính quyền các cấp.
+ Công chức nghiệp vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức. Họ chiếm tuyệt đại đa số trong công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành các chính sách và pháp luật”. [76, tr. 268]
Từ những khái niệm về công chức của một số nước như trên, có thể thấy: Công chức là những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một chức vụ hay thừa hành công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước từ trung ương đến địa phương, được hưởng lương từ ngân sách và chịu sự điều hành của Luật công chức.
Cùng cách hiểu tương tự, Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính định nghĩa công chức là: “Người được tuyển dụng và bổ nhiệm vào làm việc trong một cơ quan của Nhà nước ở trung ương hay ở địa phương, làm việc thường xuyên, toàn bộ thời gian, được xếp vào ngạch của hệ thống ngạch bậc, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có tư cách pháp lý khi thi hành công vụ của Nhà nước” [38, tr.159]. Định nghĩa này bao quát được các điều kiện để trở thành công chức là:
- Được tuyển dụng và bổ nhiệm để làm việc thường xuyên;
- Làm việc trong công sở;
- Được xếp vào một ngạch của hệ thống ngạch bậc;
- Được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước;
- Có tư cách pháp lý khi thi hành công vụ.
Ở Việt Nam, ngày 20-5-1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76/SL về Quy chế công chức, tại Điều I, mục 1 công chức được định nghĩa là: "Những công dân Việt Nam, được chính quyền nhân dân tuyển dụng để giữ một vị trí thường xuyên trong các cơ quan của Chính phủ ở trong hay ngoài nước”. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh chống ngoại xâm, bản quy chế này không được triển khai đầy đủ và trên thực tế các nội dung cơ bản của nó không được áp dụng. Trong suốt thời gian dài sau đó, mặc dù không có một văn bản nào của Nhà nước phủ định tính pháp lý của Sắc lệnh số 76, nhưng những quy định này vẫn chưa được thực hiện đầy
đủ. Lý do thì nhiều nhưng một phần quan trọng là do hoàn cảnh đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh liên tiếp và kéo dài, nên những nội dung quy định trong Sắc lệnh số 76 không được thực hiện đầy đủ.
Ngày 26-12-1998, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức, gồm 7 chương, 48 điều. Trước yêu cầu củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, cho đến nay Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã 2 lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Lần thứ nhất vào ngày 28-4-2000; lần thứ 2, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Chính phủ đã đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức và thông qua ngày 29-4-2003. Như vậy, đến nay khái niệm cán bộ, công chức được sử dụng là khái niệm được nêu trong Điều I của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003.
Pháp lệnh cán bộ, công chức (2003) là sự điều chỉnh chung đối với cả cán bộ, công chức làm trong các cơ quan Đảng, đoàn thể; công chức trong các cơ quan HCNN; công chức xã, phường; thị trấn; viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Sở dĩ như vậy là do hệ thống chính trị nước ta dựa trên nguyên tắc cơ bản: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”; hệ thống chính trị của nước ta là hệ thống các tổ chức mà qua đó nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị của mình. Hệ thống đó bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc; Đoàn thanh niên; Hội phụ nữ... Trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ nước ta chuyển đổi nền kinh tế (1986) và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức, trong văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 25-8-1995 về việc xây dựng Dự thảo Pháp lệnh cán bộ, công chức đã nêu: "Ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy cần có một Pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ, công chức trong toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm: Công chức nhà nước (trong đó công chức làm việc ở cơ
quan quân đội, cảnh sát, an ninh...), cán bộ làm việc chuyên trách ở các cơ quan Đảng, đoàn thể”.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã phân biệt được đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước và gọi họ là viên chức, đồng thời Pháp lệnh sửa đổi đã quy định thêm công chức xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, cả Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đều không đưa ra được khái niệm về cán bộ, khái niệm về công chức, chỉ đưa ra thuật ngữ chung là cán bộ, công chức.
Để khắc phục mặt hạn chế của các văn bản từ truớc đến nay, chưa làm rõ được các khái niệm về cán bộ, công chức, ngày 13/11/2008, Quốc hội đã thông qua luật số: 22/2008/QH12 - Luật Cán bộ, công chức, gồm 10 chương, 87 điều. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay và cắt nghĩa được rõ ràng hơn về các khái niệm cán bộ, công chức. Tại Điều 4 của Luật quy định:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước".
Như vậy, mỗi một quốc gia có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về công chức, trong đó sự biểu hiện khác biệt lớn nhất là đối tượng, phạm vi công chức hay nói cách khác, sự khác nhau chính là ở chỗ xác định ai là công chức HCNN. Mặc dù có sự khác nhau, song nhìn chung các quan niệm, định nghĩa đều cho rằng một công chức HCNN của một quốc gia nào đó nếu có đủ các đặc trưng sau đây đều là công chức:
- Là công dân của quốc gia đó.
- Được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan HCNN.
- Được xếp vào ngạch.
- Được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Được quản lý thống nhất và được điều chỉnh bằng Luật riêng.
- Thừa hành các quyền lực nhà nước giao cho, chấp hành các công vụ của nhà nước và quản lý nhà nước. Đội ngũ công chức là bộ phận quan trọng trong nền HCNN của một quốc gia. Sự ra đời, phát triển của công chức HCNN là sự phát triển và hoàn thiện của nhà nước pháp quyền. Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì càng cần một đội ngũ công chức có năng lực, trình độ chuyên môn cao bấy nhiêu để đảm bảo quản lý và thúc đẩy xã hội phát triển.
2.1.1.2. Đội ngũ công chức
Đội ngũ công chức là một quan niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ những đội ngũ công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do tính đặc thù của từng quốc gia nên quan niệm đội ngũ công chức ở các nước không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới hạn đội ngũ công chức trong phạm vi những người tham gia hoạt động quản lý nhà nước. Một số nước khác có quan niệm