PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trong vòng 10 năm trở lại đây, ngành du lịch thế giới tăng trưởng khoảng 25%. Hiện tại du lịch chiếm khoảng 10% hoạt động kinh tế toàn cầu và một trong những ngành tạo ra công ăn việc làm chính trên thị trường lao động thế giới [37]. Ngành du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Từ nay đến năm 2020 theo UNWTO, dự báo du lịch còn tăng trưởng ồ ạt hơn nữa, tạo ra các cơ hội kinh tế lớn lao song mang lại những thách thức gay gắt và những mối đe dọa tiềm ẩn đối với môi trường và các cộng đồng địa phương nếu không được quản lý tốt [87,28]. Trước những nguy cơ đó, con người bắt đầu nhìn nhận, chuyển hướng nhận thức và cách tiếp cận trong hoạt động du lịch, họ mong muốn đóng góp trách nhiệm cho một thế giới phát triển bền vững hơn. Theo đó, xu thế phát triển du lịch dựa vào thiên nhiên nói chung và DLST nói riêng đang trở thành xu thế của thời đại và có ý nghĩa quan trọng không những về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của du lịch trên khía cạnh trách nhiệm đối với tài nguyên và môi trường.
Vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là vùng được thiên nhiên ưu đãi về tiềm năng du lịch nói chung và DLST nói riêng. Trong những năm qua đã đón bắt nhiều cơ hội để phát triển du lịch và DLST, qua đó nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên như các bãi biển (Mũi Né, Ninh Chữ, Cà Ná, Hàm Tân,…) các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên đã và đang được khai thác sử dụng để phát triển du lịch. Tuy với thế mạnh vượt trội về tài nguyên du lịch, là cơ sở để phát triển DLST nhưng cho đến nay việc khai thác tiềm năng này trên cả lĩnh vực tự nhiên lẫn nhân văn còn ở mức nhỏ lẻ, tự phát, chưa có được những nghiên cứu mang tính bài bản, khoa học để tạo nền tảng cho việc khai thác có hiệu quả những nguồn tiềm năng to lớn này.
Hiện nay, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế du lịch với quy mô lớn, tốc độ nhanh, làm cho các địa phương đối phó với nhiều vấn đề nan giải, tồn tại mâu thuẩn ngày càng gay gắt: một bên cần phải bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt là môi trường sinh thái vùng khô hạn ven biển, một bên là phát triển kinh tế du lịch để mang
lại nguồn lợi kinh tế cho địa phương. Kinh nghiệm từ các nước đã có quá trình phát triển du lịch lâu dài trên thế giới cho thấy để dung hoà hai lợi ích mang tính đối nghịch nêu trên chỉ có con đường lựa chọn đó là đẩy mạnh phát triển DLST một cách khoa học và bền vững dựa trên không gian các vùng địa lý đặc thù này mới đảm bảo được tính cân bằng và phát triển bền vững cho các địa phương.
Các năm qua, việc nghiên cứu trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn về du lịch sinh thái ở nước ta nói chung chỉ mơi bước đầu, dưới dạng những nghiên cứu nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống, chủ yếu ở tầm quốc gia. Đặc biệt những nghiên cứu về phát triển du lịch sinh thái trên vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là chưa có gì. Vì vậy việc nghiên cứu sâu hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm phát triển DLST ở vùng DHCNTB là hết sức quan trọng và cần thiết.
2- Mục tiêu nghiên cứu:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển di tích lịch sử các tỉnh vùng Duyên hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020 - 2
- Các Giai Đoạn Phát Triển Của Dlst Ven Biển Và Hải Đảo:
- Những Kinh Nghiệm Phát Triển Dlst Ở Một Số Nước Asean Và Những Vấn Đề Rút Ra Cho Việt Nam:
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý thuyết có liên quan về DLST, DLST bền vững, đặc biệt DLST bền vững đối với một vùng biển – hải đảo và DLST trên các vùng nhạy cảm về môi trường khác.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu bao gồm: Nhóm giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái và tài nguyên nhân văn liên quan đến DLST; Nhóm giải pháp tổng hợp phát triển DLST vùng .
Đề xuất tổ chức phân vùng quy hoạch một cách có hệ thống và khoa học không gian DLST cho hai tỉnh vùng DHCNTB.
3- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu và hệ thống lại các cơ sở lý thuyết về phát triển DLBV, DLST, DLST biển - đảo bền vững.
Nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển DLST của các nước và rút ra các bài học kinh nghiệm, làm cơ sở cho tác giả đề xuất giải pháp ở chương 3.
Tổ chức khảo sát thực tế các địa bàn vùng DHCNTB để hỗ trợ đánh giá thực trạng khách DL-DLST, qua đó phác họa bức tranh về DLST đang có nhiều mãng sáng tối, chưa phối hợp hài hòa và thiếu tính bền vững.
Đề xuất hệ thống các nhóm giải pháp hợp lý nhằm xây dựng kế hoạch hành động phát triển DLST của vùng DHCNTB
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu: đối tượng chính tập trung nghiên cứu là các hoạt động liên quan đến tổ chức quản lý phát triển DLST, là chủ thể gắn với yếu tố cung. Ngoài ra các đơn vị lữ hành, các công ty dịch vụ, khách DL-DLST, cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động DLST cũng là những đối tượng được nghiên cứu bổ trợ để so sánh đối chiếu, suy diễn.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên không gian thuộc tiểu vùng DHCNTB (gồm hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận). Về mặt thời gian luận án giới hạn thời gian từ 1995 đến 2010, đây là khoảng thời gian mà hoạt động DLST tại Ninh Thuận–Bình Thuận đã có những bước khởi đầu đáng ghi nhận.
5- Phương pháp nghiên cứu: Có 2 phương pháp được sử dụng nghiên cứu gồm:
5.1 Phương pháp định tính:
5.1.1 Phương pháp phân tích thống kê: tác giả sử dụng các nguồn số liệu thứ cấp đáng tin cậy được thu thập từ các Sở VHTT-DL, Sở NN &PTNT, Sở Kế hoạch & Đầu tư, Cục Thống kê của 2 tỉnh, từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch, Tổng Cục DL. Bên cạnh đó còn sử dụng các nguồn dữ liệu chính thức của các tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), Hiệp hội DLST quốc tế (TIES), Hội đồng Du lịch Lữ hành quốc tế, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN),.. Với các nguồn dữ liệu này tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích thống kê để phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động DLST tại vùng DHCNTB.
5.1.2 Phương pháp chuyên gia:
-Thông qua các đợt hội thảo quốc gia về du lịch được tổ chức tại Bình Thuận, Ninh Thuận, tác giả đã tiếp cận với các chuyên gia du lịch đến từ TW, các tỉnh, thành phố, đặc biệt là các lãnh đạo ngành Du lịch ở hai tỉnh để trao đổi và xin ý kiến nhận xét đánh giá của chuyên gia để bổ sung cho các nghiên cứu, và giúp cho phần phân tích thực trạng ở chương 2 và nêu giải pháp cũng như đề xuất quy hoạch tổ chức không
gian DLST liên kết giữa hai tỉnh ở chương 3 mang tính thực tiễn, sát đúng và khoa học hơn.
-Thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề hẹp mà tác giả chủ động tham gia, phối hợp tổ chức (Hội thảo phát triển DLST tỉnh Bình Thuận, 2009; Hội thảo về Môi trường nông nghiệp-nông thôn với Đa dạng sinh học ở Việt Nam, 2009) các nhà khoa học chuyên ngành, các chuyên gia quản lý du lịch và môi trường đóng góp ý kiến cho bản báo cáo của tác giả nhằm nâng cao tính phù hợp với thực tiễn của nội dung luận án.
-Tác giả đã gặp trực tiếp, phỏng vấn trao đổi với 26 chuyên gia là những nhà quản lý du lịch cao cấp của hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, các nhà quản lý công ty Du lịch lữ hành, các cơ sở dịch vụ du lịch, các Hiệp hội để xin ý kiến đánh giá kiểm định về tính thực tiễn, tính khả dụng của bảng câu hỏi dùng để khảo sát khách DL-DLST, đồng thời còn lấy ý kiến cho điểm về các yếu tố về điểm mạnh, điểm yếu, đe dọa, thách thức đối với hoạt động DLST của vùng DHCNTB từ bảng phân tích SWOT.
5.1.3 Phương pháp suy diễn quy nạp: qua các tài liệu của UNWTO, TIES, PATA, của Tổng cục Du lịch VN (Viện Nghiên cứu và Phát triển DL), các công trình khoa học đã được công bố nghiên cứu về phát triển DLST, về các mô hình DLST bền vững, các kết quả thành công từ thực nghiệm các nước, từ đó tác giả rút ra những mô thức chung vận dụng để suy diễn, hệ thống lại các nội dung từ thực tiễn cũng như lý luận của các nước làm cơ sở cho việc phân tích, suy đoán, diễn giải, xây dựng các giải pháp và lập kế hoạch hành động với các bước đi thích hợp.
5.2 Phương pháp định lượng:
A/. Sử dụng mô hình phi tuyến dạng hàn mũ để thực hiện dự báo lượng du khách đến: Khác với trước đây, các dự báo thường dùng các mô hình tuyến tính giản đơn để dự báo. Trong chương 3, với đặc điểm số liệu của lượng khách du lịch (quốc tế và nội địa) là số liệu chuỗi thời gian (Time series), thường diễn biến theo xu hướng phi tuyến. Do đó tác giả sau khi chạy thử 2 dạng hàm bậc 2 và hàm mũ, đã quyết định sử dụng mô hình hồi quy phi tuyến dạng hàm mũ theo mô hình kinh tế lượng Holt-Winter là hàm thích hợp nhất. (đây là dạng mô hình mà Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch đã ứng dụng trong dự báo- Tạp chí Du lịch VN số 10/2011). Tác giả đã sử dụng phần
mềm kinh tế lượng chuyên dụng Eviews 7.0 để giải quyết bài toán định lượng dự báo nói trên. Sai số mô hình cho thấy rất thấp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cho dự báo (xem phụ lục C)
B/ Sử dụng phương pháp phân tích định lượng để khảo sát nhu cầu và yêu cầu của du khách đối với DLST ở vùng DHCNTB: Tác giả đã sử dụng số liệu sơ cấp được thu thập khi khảo sát trực tiếp 883 du khách (144 khách quốc tế, 739 khách nội địa) với phần mềm PASW-SPSS 20.0 để tính toán tần suất, phân tích, phân loại theo nhóm gắn với tính chất, hành vi để làm cơ sở cho các phân tích tích định lượng khác trong chương 2.
6- Phương pháp luận trong nghiên cứu luận án: Luận án “Phát triển DLST các tỉnh vùng DHCNTB đến năm 2020”. Tác giả muốn nghiên cứu làm rõ các nội dung lý luận về DSLT, về các nguyên tắc, điều kiện để hoạch định sự phát triển DLST bền vững trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Tác giả sử dụng các phương pháp định tính và định lượng trong phân tích đánh giá thực trạng về tổ chức hoạt động DLST trong các năm qua, thống kê phân tích nguồn tài nguyên DLST của 2 tỉnh, cùng với dự báo khả năng phát triển. Tác giả vạch ra các định hướng mục tiêu phát triển, định hướng tổ chức không gian DLST của vùng và đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển DLST của vùng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Qua đó ở chương 1, tác giả trình bày cơ sở lý luận về DLST bền vững, các nguyên tắc và điều kiện để phát triển DLST. Tuy nhiên, sẽ đi sâu hơn trong lý luận về phát triển DLST bền vững, các giai đoạn phát triển của loại hình này và nguyên tắc quy hoạch phát triển bền vững DLST biển, đảo. Thêm vào đó, những bài học kinh nghiệm về quản lý DLST của các nước có điều kiện phát triển tương đồng ở Đông Nam Á cũng được đưa ra để tham khảo vận dụng (kinh nghiệm của Thái Lan, của Indonesia, Malaysia, Philippines). Trong nội dung chương 2, tác giả đã phân tích một cách toàn diện hoạt động DLST đang diễn ra ở 2 tỉnh, phân tích diễn biến số lượng, đặc điểm và nhu cầu của du khách quốc tế, nội địa, phân tích các tuyến-điểm cũng như các loại hình DLST đang được khai thác. Đúc kết rút ra những thuận lợi, khó khăn, những thành công đạt được, những cơ hội sắp đến cùng những thách thức thông qua phân tích
SWOT. Trong chương 3, để xây dựng các giải pháp và khung kế hoạch hành động, tác giả đã dựa trên việc thiết lập, định hướng cho việc tổ chức không gian DLST, trình bày các quan điểm phát triển cụ thể và đưa ra các cơ sở bao gồm: cơ sở mang yếu tố quốc tế, cơ sở mang yếu tố quốc gia, và cơ sở từ việc dự báo quy mô phát triển. Ngoài ra để việc thực hiện các giải pháp phát triển đồng bộ và hiệu quả hơn tác giả cũng trình bày những kiến nghị hỗ trợ thực hiện với các cấp liên quan như với Chính phủ, với các tỉnh, với các doanh nghiệp, và với người dân và cộng đồng.
7- Tổng quan về tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài:
a- Giới thiệu tổng quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Từ thực tiển phát triển mạnh mẽ của DLST trên thế giới. Tác giả luận án trong suốt 4 năm qua, đã có điều kiện tiếp cận với hơn 100 tài liệu liên quan đến lĩnh vực DL và DLST trong và ngoài nước. Trong số đó tác giả tâm huyết các tài liệu sau đây: “ Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” và “Nghiên cứu và đề xuất tiêu chí khu DLST Việt Nam” do Viện Nghiên cứu và PT Du lịch soạn thảo; “Du lịch sinh thái những vấn đề về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” do PGS.TS. Phạm Trung Lương chủ biên; “Du lịch sinh thái – Ecotourism” do GS-TSKH. Lê Huy Bá biên soạn; “Du lịch bền vững” do Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu đồng biên soạn; “ Du lịch sinh thái những nguyên tắc- thực hành và chính sách để phát triển bền vững” của tác giả M.Epler Wood, “ Phát triển DLST tại Malaysia – Có thật sự bền vững ?” của M. Badaruddin; “ DLST ở Australia-Sự kết nối của năng suất xanh” của Tsung –Weilai; “DLST ở Indonesia” của Ricardo Manurung; “ DLST ở Philippines” của A.M. Alejandriino. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu nêu trên, tôi nhận thấy chưa có tài liệu nào trên đây đề cập đến nội dung đề tài mà mình đang nghiên cứu, thêm vào đó những lý luận mà các tài liệu đã nêu ra chỉ là bước đầu mang tính khái quát, chưa đề cập được những đặc trưng về các loại hình DLST chuyên sâu về biển và hải đảo trên địa bàn vùng duyên hải Việt Nam. Nhìn chung qua các công trình nghiên cứu ở trong nước về DLST trong thời gian qua, tác giả đề tài có một số nhận xét như sau:
* Ưu điểm: Nhiều công trình nghiên cứu khá công phu về lý luận, có sự tiếp cận của các thành tựu về lý luận lẫn thực tiển nghiên cứu DLST của các nước Asean và trên thế giới; bước đầu đã thống kê khá bài bản các nguồn tài nguyên DLST thiên nhiên và nhân văn trên phạm vi quốc gia hoặc vùng lớn, định hướng được những nội dung khai thác DLST trên một số khu vực đặc trưng, các VQG và các khu bảo tồn thiên nhiên ở nước ta.
* Tồn tại: Các công trình nghiên cứu còn thiên về lý luận, chỉ dừng lại mức độ nghiên cứu tổng quát, hàn lâm chưa có nhiều nội dung sáng tạo thể hiện dựa trên đặc thù DLST của Việt Nam; chưa đi sâu vào nghiên cứu các vùng miền và các tỉnh có tiềm năng phát triển DLST; số lượng nghiên cứu còn ít, đặc biệt nội dung phát triển DLST văn hóa, DLST cộng đồng; nghiên cứu và đề xuất về sản phẩm DLST còn rất sơ sài, nghèo nàn, chỉ tập hợp những sản phẩm đã có sẳn và lại trùng lập trên nhiều tour, tuyến du lịch chung của cả nước; khi đề cập đến các tuyến điểm DLST đang khai thác về DLST biển, hầu hết chỉ nói chung đến các hoạt động khai thác DLST tuyến bờ và mép nước (nghỉ dưỡng, tắm biển,..) còn tuyến trên và dưới mặt nước ít được đề cập, đặc biệt nội dung DLST biển và đảo chưa thấy đề cập đến; nghiên cứu về DLST chỉ nghiên cứu tổng thể chung cho Việt Nam, cho các VQG, khu bảo tồn, đặc biệt không có tài liệu nào nghiên cứu về DLST cho vùng duyên hải cực Nam Trung bộ, là vùng DLST biển đặc thù nhất, đa dạng các tài nguyên DLST ở miền Trung, đang là điểm đến mới nổi về DLST được du khách biết tiếng.
b- Tính mới của đề tài nghiên cứu: Về lý luận:
- Thứ nhất: tác giả đã bổ sung và đưa ra khái niệm DLST có tính toàn diện hơn, nêu bật được những đặc điểm chính của DLST.
- Thứ hai: kết hợp các nội dung chung về phát triển DLBV ở vùng biển, tác giả đã vận dụng tổng hợp xây dựng thành chuyên mục phát triển DLST bền vững ở vùng bờ biển và hải đảo. Qua đó tác giả đã bổ sung khái niệm về DLST biển đảo, trong đó đề cập chi tiết và sâu hơn các loại hình DLST đang khai thác trên bờ, trên mặt biển, dưới đáy biển và trên các hải đảo xa bờ giàu tài nguyên DLST.
- Thứ ba: tác giả đã nghiên cứu vận dụng lý thuyết về địa lý kinh tế du lịch để hoạch định phân vùng tài nguyên, quy hoạch tổ chức không gian DLST theo địa giới lãnh thổ vùng DHCNTB (tức là địa bàn tỉnh Thuận Hải trước đây).
-Thứ tư: trong vận dụng các mô hình tính toán lý thuyết, tác giả mạnh dạn đề xuất áp dụng mô hình kinh tế lượng phi tuyến Holt-Winter với dữ liệu chuỗi thời gian (Time series) cho dự báo khách DL đến trên địa bàn một vùng lãnh thổ.
Điểm mới về thực tiễn và khả năng ứng dụng của luận án:
-Thứ nhất: sự chia cắt theo địa giới hành chính tỉnh, huyện, cùng với phương thức quản lý có xu hướng “khép và đóng” đã làm cho các nhà quản lý du lịch ở địa phương không thấy hết được những mối liên hệ nội tại vốn có về các khía cạnh kinh tế-xã hội, về sự nối kết do truyền thống lịch sử, tính chất thúc đẩy khai thác tài nguyên liên vùng,… Luận án đã phân tích đứng trên bình diện vùng lãnh thổ thống nhất, xuyên suốt với nguyên tắc hướng đến tối ưu trong gắn kết khai thác tài nguyên DLST, tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để xây dựng mối liên hệ phát triển DLST bền vững.
-Thứ hai: lần đầu tiên một luận án với đề tài phát triển DLST trên một vùng duyên hải giàu tiềm năng DLST được xây dựng. Ngoài những yếu tố được đề cập về nội dung về khái niệm mang tính học thuật, phân tích thực trạng, nội dung kinh doanh DL,…Tác giả luận án còn hướng đến ứng dụng về lĩnh vực địa lý kinh tế du lịch trong việc đi sâu phân định, tổ chức không gian, lãnh thổ DLST để thiết kế phân khu chức năng hoạt động và phân vùng tài nguyên DLST. Từ đó đã đề xuất xây dựng trên 30 tour, tuyến, điểm DLST liên vùng cụ thể, xuyên suốt tạo nên một mạng lưới hoạt động DLST hợp lý.
-Thứ ba: định hướng phát triển du lịch sinh thái của vùng DHCNTB giai đoạn 2008- 2020. Trên các cơ sở tính toán và phân tích, tác giả đã đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển, các khung kế hoạch hành động ngắn hạn cho các thời kỳ 2012- 2015, và 2016-2020.
-Thứ tư: qua việc phân tích và đánh giá thực trạng về tài nguyên du lịch, về tổ chức quản lý hoạt động DLST của vùng DHCNTB, tác giả phát hiện việc quản lý theo địa