Đặc Trưng Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại


phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán.

1.1.2.2 Dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây

● Cho vay tiêu dùng

Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Các ngân hàng thường sử dụng nhiều hơn tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Tuy nhiên, những năm gần đây với sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng.

● Tư vấn tài chính

Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.

● Quản lý tiền

Quản lý tiền là loại dịch vụ trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần vốn tiền tệ thặng dư tạm thời nhàn rỗi vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền để thanh toán. Một số ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa dịch vụ quản lí tiền cho các tổ chức, một số khác lại có xu hướng gia tăng việc cung cấp các dịch vụ tương ứng cho người tiêu dùng. Dịch vụ quản lý tiền ngày nay của các ngân hàng cũng chịu tác động cạnh tranh rất mạnh mẽ của các tổ chức tài chính khác như các công ty môi giới chứng khoán và các tập đoàn tài chính khác.

● Dịch vụ cho thuê thiết bị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn


Phát triển bền vững Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 4

mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu, các quy định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà tổng số tiền này đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Theo sự phát triển của dịch vụ cho thuê, các hình thức cho thuê ngày càng đa dạng và được ràng buộc bởi những quy định cụ thể khác nhau.

● Cho vay tài trợ dự án

Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là với ngành công nghệ cao. Do rủi ro tín dụng tiềm ẩn trong tài trợ dự án cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ điển hình về loại hình công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital Anh Citicorp Venture, Inc

● Bán các dịch vụ bảo hiểm

Từ nhiều năm nay các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lí kinh doanh độc quyền. Theo đó, một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lí tại ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ bảo hiểm. Những ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng, nếu được phép sẽ có thể cung cấp các dịch vụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt và giới hạn quy mô đầu tư trong tỉ lệ vốn chủ sở hữu nhất định.

● Cung cấp các kế hoạch hưu trí

Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lí kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.


● Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán

Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính, cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lí do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.), hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới hoặc thành lập các công ty con trực thuộc.

● Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp

Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng các sản phẩm đầu tư (investment products), đặc biệt là đầu tư vào quỹ tương hỗ (quỹ đầu tư mở) và hợp đồng trợ cấp Quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lí một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ. Vì vậy, đây là những loại hình dịch vụ có triển vọng thu hút được nhiều khách hàng hơn và có thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Đó cũng là lí do khiến các ngân hàng có xu hướng bổ sung dịch vụ tương hỗ và trợ cấp để ngày càng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, và cũng là để hạn chế rủi ro, tăng thu nhập nâng cao vị thế, uy tín của mình trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.

● Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn

Ngày nay, nhiều ngân hàng đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và bán buôn cho các tập đoàn lớn Những dịch vụ này bao gồm: xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán.

Ngoài ra, hoạt động đầu tư của NHTM được thực hiện dưới nhiều hình thức


như: đầu tư mua bán chứng khoán, đầu tư góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh liên kết… Nhờ có những hoạt động đầu tư này mà các ngân hàng có thể sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động, đa dạng hoá kinh doanh và phân tán rủi ro tăng cường khả năng thanh khoản cho dự trữ của ngân hàng. Đồng thời nó cũng mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động đầu tư thực hiện ở mức độ nào còn tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức ngân hàng thương mại ở mỗi nước.

● Các dịch vụ ngân hàng hiện đại

Trong quá trình cạnh tranh và hội nhập, việc ứng dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là điều kiện thiết yếu và sống còn của mỗi ngân hàng. Thực tế hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đã và đang triển khai cung ứng một số dịch vụ ngân hàng hiện đại sau:

* Dịch vụ tư vấn tài chính cá nhân

Tư vấn tài chính cá nhân (Personal Finance Consultant - PFC) là dịch vụ trong đó ngân hàng đến tận nơi tư vấn trực tiếp cho khách hàng về các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. PFC đem đến cho khách hàng nhiều lợi ích:

- PFC tư vấn các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với nhu cầu và khả năng của từng khách hàng.

- PFC hướng dẫn khách hàng hoàn tất thủ tục nhanh chóng và thuận tiện.

- PFC cung cấp thường xuyên đến khách hàng những thông tin tài chính mới nhất và thật sự hữu ích cho những kế hoạch kinh doanh và chi tiêu của khách hàng

* Dịch vụ ngân hàng trực tuyến

Để đáp ứng nhu cầu giao dịch không cần tới ngân hàng của các doanh nghiệp, hiện nay nhiều ngân hàng đã ứng dụng ngân hàng trực tuyến với các sản phẩm cơ bản sau:

- eTeller - Dịch vụ tài khoản online

- eRemittance - Dịch vụ chuyển tiền online

- eLending - Dịch vụ tiền vay online

- eTrade - Tài trợ thương mại (thanh toán quốc tế) online

Ngoài ra, hầu hết các ngân hàng đều cung cấp dịch vụ thẻ điện tử, thanh toán


điện tử liên ngân hàng trong nước và quốc tế, các dịch vụ ngân hàng điện tử: mobile banking, phone banking, home banking, internet banking…

1.1.3 Đặc trưng hoạt động của Ngân hàng thương mại

1.1.3.1 Ngân hàng thương mại là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi

Tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của các NHTM là các khoản cho vay và đầu tư. Nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất là vốn huy động. Doanh thu chính của các NHTM là doanh thu từ hoạt động cho vay và chi phí lớn nhất của NHTM là lãi phải trả cho tiền gửi của khách hàng.

Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của NHTM an toàn và hiệu quả nâng cao khả năng cạnh tranh trong huy động vốn và cho vay các, ngân hàng luôn phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, quy chế hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan chủ quản.

1.1.3.2 Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ

Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng từ người cho vay sang người đi vay các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc một công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng Hoạt động này đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Như vậy, sự phát triển ổn định của hệ thống NHTM tác động tích cực đến hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ của NHTW và là cơ sở để tạo ra sự ồn định và phát triển lành mạnh cho nền kinh tế.

1.1.3.3 Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động cung cấp các dịch vụ

Sản phẩm của hoạt động ngân hàng là các dịch vụ. Chất lượng của những sản phẩm này chủ yếu được đánh giá qua sáu tiêu chí: tính đúng thời gian thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng, tính đồng nhất, sự thuận tiện để có được sản phẩm


tính hoàn chỉnh của sản phẩm dịch vụ, tính chính xác, không sai sót.

Những yêu cầu trên tác động mạnh mẽ đến hoạt động của NHTM. Hoạt động cung cấp dịch vụ của NHTM càng đáp ứng được nhiều tiêu chí, được khách hàng đánh giá tốt thì NHTM không những giữ được khách hàng cũ mà còn lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới. Từ đó, các hoạt động này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

1.1.3.4. Hoạt động ngân hàng thương mại phong phú đa dạng và có phạm vi rộng lớn

Hoạt động của NHTM ngày càng tăng về số lượng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh những hoạt động truyền thống như: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán, NHTM còn thực hiện tư vấn tài chính, làm đại lý tài trơ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ… Các ngân hàng đang có xu hướng chuyển từ ngân hàng chuyên doanh sang ngân hàng đa năng.

Sự gia tăng về khối lượng nghiệp vụ ngân hàng kéo theo sự gia tăng về đối tượng và số lượng khách hàng. Mọi chủ thể trong nền kinh tế đều có thể là khách hàng của ngân hàng: doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài…

Các ngân hàng đều có mạng lưới chi nhánh lớn và do đó đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn ra khu vực và quốc tế.

1.2 Phát triển bền vững của Ngân hàng thương mại

1.2.1 Quan điểm về phát triển bền vững Ngân hàng thương mại

1.2.1.1 Quan điểm về phát triển bền vững của Liên hiệp Quốc

Quan điểm PTBV đã từng bước được tìm kiếm. Năm 1972, thế giới đối mặt với tình trạng khan hiếm năng lượng và ô nhiễm môi trường nặng nề. Ngay cả với “thần kỳ kinh tế Nhật Bản” cũng nhận thấy ô nhiễm môi trường đô thị đã gây tác hại nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và phát triển đất nước. Trước thực tế đó và dưới sức ép của các nhà khoa học, Liên hiệp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về môi trường ở Stockhom Thụy Điển, thu hút sự tham gia của 113 quốc gia trên thế giới. Hội nghị này được coi là hội nghị đầu tiên của thế giới về vấn đề gắn phát triển


với việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống của con người. Hội nghị đã ra tuyên bố xác nhận hiện trạng môi trường toàn thế giới đang xấu đi nghiêm trọng và kêu gọi nhân loại hãy cứu lấy trái đất, cái nôi của sự sống. Hội nghị đã thúc đẩy vấn đề môi trường ở các quốc gia. Hội nghị là cơ sở để thành lập Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc UNEP và Công ước quốc tế về buôn bán động vật quý hiến CITES. Hội nghị đã ra tuyên bố Stockhom về môi trường con người gồm 7 điểm và 26 nguyên tắc.

Trên phạm vi toàn cầu, nhân loại đang tìm cách đối phó với tình trạng cuộc sống ngày càng xấu đi do sự gia tăng của nghèo đói, bệnh tật, thất học do sự cách biệt ngày càng sâu sắc giữa giàu và nghèo và đặc biệt do sự xuống cấp không ngừng của môi trường. Trong bối cảnh đó, Liên hiệp quốc đã thành lập Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển vào năm 1983.

Tuy nhiên, khái niệm PTBV được phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundtland năm 1987 của Ủy ban môi trường và phát triển thế giới (WCED) – Báo cáo “Tương lai của chúng ta”. Trong báo cáo này, PTBV được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Báo cáo Brundtland lần đầu tiên công bố chính thức và định nghĩa thuật ngữ “Phát triển bền vững”. Báo cáo cũng đưa ra cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài.

Năm 1991, một ấn phẩm quan trọng liên quan đến PTBV là cuốn “Cứu lấy trái đất – Chiến lược cho cuộc sống bền vững”, đồng ấn phẩm của ÏUCN, UNEF WWF, đã được xuất bản. Cuốn sách được Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường dịch, làm tài liệu giảng dạy trong nhiều khóa đào tạo sau đại học về sinh thái môi trường và phát triển của mình. Chín chương đầu cuốn sách được xem là “Những nguyên tắc của một xã hội bền vững”, nhằm mục tiêu vừa cứu lấy trái đất vừa vì một xã hội bền vững. Chín nguyên tắc đó là: 1-Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng; 2- Cải thiện chất lượng cuộc sống con người; 3- Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất; 4- Quản lí tài nguyên không tái tạo; 5- Tôn trọng


khả năng chịu đựng của trái đất; 6- Thay đổi tập quán và thói quen cá nhân; 7- Để cho các cộng đồng tự quản lí lấy môi trường của mình; 8- Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho phát triển bền vững; 9- Xây dựng khối liên minh toàn cầu để bảo vệ môi trường..

Bước ngoặt quan trọng nhất có thể nói là Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường năm 1992. Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển đã được Liên hợp quốc tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) (Hội nghị Rio - 92). Đây là cuộc gặp gỡ lớn chưa từng thấy của các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới. Đã có 179 nguyên thủ của các quốc gia tham gia hội nghị này. Thành công lớn hơn cả của Hội nghị là đã đưa ra được hai 2 bản tuyên bố mang tính nguyên tắc đó. Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Tuyên bố các nguyên tắc quản lý bảo vệ và PTBV rừng. Hội nghị cũng đã ký kết hai công ước quốc tế là Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu và Công ước về đa dạng sinh học. Hội nghị cũng đưa ra chương trình nghị sự (Agenda

21) về các giải pháp phát triển chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Đây là văn kiện đồ sộ gồm 40 chương nên lên các công việc cần phải làm, các biện pháp cần thực hiện và kinh phí cần phải có để thực hiện các công việc đó. Trên cơ sở những văn kiện này, các quốc gia soạn thảo, hiệu chỉnh chiến lược phát triển của mình và định hướng hợp tác toàn cầu nhằm bảo vệ môi trường trên trái đất. Hội nghị này đã đánh dấu mốc quan trọng trong nhận thức và hành động của cộng đồng quốc tế về PTBV bằng việc thành lập ủy ban PTBV (Commission on Sustainable Development) và đưa ra định nghĩa về sự PTBV: “sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của thế hệ mai sau”. Khái niệm về PTBV của Liên hợp quốc đưa ra được tất cả các nước chính thức thừa nhận và cam kết thực hiện.

Mười năm sau Hội nghị Rio, nhiều thành tực đã được ghi nhận nhưng cũng có những thách thức mới. Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về phát triển bền vững (WSSD) năm 2002 tại Johannesburg (Nam Phi) với sự tham gia của 166 quốc gia (Hội nghị Rio+ 10). Hội nghị lần này đã tiếp tục khẳng định các nguyên tắc và văn

Xem tất cả 226 trang.

Ngày đăng: 27/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí