Trong điều kiện thị trường thiếu thông tin, biến đổi nhiều bất thường cũng như việc tập đoàn Hoà Phát đang ở trong giai đoạn thay đổi cơ cấu và mức độ tập trung ở các lĩnh vực kinh doanh khác nhau như hiện nay, phương pháp chiết khấu luồng tiền hàm chứa những rủi ro nhất định gây sai lệch giữa giá trị ước lượng được với giá trị thực của tập đoàn.
4.1.2.2. Thiếu thói quen lập kế hoạch kinh doanh dài hạn
Tập đoàn Hoà Phát cho đến nay vẫn chưa có thói quen lập kế hoạch tài chính dài hạn. Trong bản cáo bạch và báo cáo thường niên của mình, các doanh nghiệp chỉ có kế hoạch tài chính cho nhiều nhất là 3 năm tới.
4.1.2.3. Sự thiếu hiểu biết của nhà đầu tư, công ty niêm yết cũng như sự yếu kém trong công tác quản lý thị trường
Sự tụt dốc của thị trường chứng khoán ngoài những nguyên nhân khách quan như sự tác động qua lại của nền kinh tế thế giới đến Việt Nam, các tác động tình hình kinh tế, chính trị trong và ngoài nước... còn do sự hạn chế về hiểu biết của nhà đầu tư, công ty niêm yết cũng như sự yếu kém trong công tác quản lý thị trường, dự báo tình hình của nhà nước. Trong đó, sự thiếu kiến thức đầu tư là một vấn đề đáng quan ngại của một bộ phận lớn các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường. Tuy rằng trong những năm gần đây, vấn đề này đã được cải thiện một cách đáng kể, tuy nhiên nó vẫn tồn tại và gây những ảnh hưởng nhất định đến việc định giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Tâm lý nhà đầu tư thường đầu tư theo xu hướng bầy đàn, đầu tư theo đám đông và theo động thái của nhà đầu tư nước ngoài hoặc các tổ chức lớn. Mặc dù tâm lý này có thể giải thích theo các phương pháp phân tích kỹ thuật, tuy nhiên về phương tiện phân tích cơ bản, nền tảng lý thuyết mà hầu hết các phương pháp định giá dựa theo, có thể làm sai lệch giá trị doanh nghiệp.
4.1.2.4. Sự khác biệt lớn của Hòa Phát so với các công ty cùng ngành
Hoà Phát là công ty đầu ngành trong lĩnh vực sản xuất thép, cổ phiếu HPG luôn được đánh giá tốt trên thị trường chứng khoán. Giá trị vốn hoá trên thị trường của Hoà Phát là gần 20 nghìn tỷ, lớn hơn rất nhiều so với doanh nghiệp xếp thứ hai là Tập đoàn Hoa Sen với giá trị vốn hoá khoảng 7 nghìn tỷ. Sự khác biệt lớn về giá trị vốn hoá cùng những lợi thế trong cạnh tranh đặc biệt khiến Hoà Phát vượt trội so với các doanh nghiệp cùng ngành thép. Chính sự khác biệt này gây ra khó khăn cho phương pháp phân tích định giá tương đối, việc xác định chỉ số P/E trung bình ngành chỉ mang tính tương đối, có thể ảnh hưởng đến kết quả định giá riêng của cổ phiếu HPG. Thêm vào đó, những sai sót thông tin trong việc tổng hợp thông tin về ngành do chưa có một quy chế thống nhất về việc phân chia ngành nghề hoạt động cũng gây cản trở trong công tác định giá.
4.2. Kiến nghị một số điều kiện cần thiết để định giá cổ phiếu HPG đúng với giá trị thực
Có thể bạn quan tâm!
- Danh Sách Cổ Đông Lớn Của Hoà Phát Cuối Năm 2015
- Dòng Tiền Fcfe Kỳ Vọng Của Tập Đoàn Hoà Phát Qua Các Năm:
- Tăng Trưởng Doanh Thu Của Hpg Và Ngành Thép (2009-2015)
- Phân tích và định giá cổ phiếu HPG của Công ty cổ phần tập đoàn Hòa Phát - 15
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
4.2.1. Doanh nghiệp thực hiện kế toán theo nguyên tắc giá trị thị trường
Trên thực tế, giá trị doanh nghiệp xác định rõ ràng và chính xác nhất khi doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán theo nguyên tắc giá trị thị trường. Nhờ sử dụng phương pháp giá trị tài sản ròng, giá trị của doanh nghiệp và giá cổ phiếu trên thị trường có thể dễ dàng tính toán. Đối với các tài sản ngắn hạn, việc đánh giá trên bảng cân đối kế toán theo nguyên tắc giá gốc, nhưng đã được đánh giá trên bảng cân đối kế toán theo nguyên tắc giá gốc, nhưng đã được đánh giá lại theo giá trị thuần có thể thực hiện được nên phần nào giá trị sổ sách của tài sản ngắn hạn đã phản ánh được giá trị thị trường. Tuy nhiên hoạt động này vẫn có độ trễ khi thời điểm đánh giá tài sản thông thường là thời điểm cuối năm và thời điểm công bố tài chính thường là 3 tháng sau. Đối
với các tài sản dài hạn, nhất là tài sản cố định, giá trị được khấu hao theo phương pháp đường thẳng và thường không có thông tin về giá trị thị trường.
Mặc dù với quy mô tài sản lớn như của Tập đoàn Hoà Phát, việc đánh giá có thể gây khó khăn, tốn nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, tập đoàn có thể thực hiện các bảng kê khai, nhóm lại các tài sản có cùng thời điểm đưa vào sử dụng và đưa ra giá trị nguyên gốc để từ đó nhà đầu tư có thể điều chỉnh theo lạm phát và có thể xác định một cách gần nhất giá trị tài sản ròng của tập đoàn.
4.2.2. Nâng cao trách nhiệm công bố thông tin của tập đoàn Hoà Phát
Các thông tin về hoạt động kinh doanh chung của tập đoàn Hoà Phát hiện nay chủ yếu được thu thập thông qua thông tin từ báo cáo tài chính hợp nhất, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của tập đoàn. Tuy nhiên lượng thông tin trong báo cáo tài chính hợp nhất và thuyết minh báo cáo tài chính thường không cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động chi thiết của các công ty thành viên. Điều này gây khó khăn khi xem xét định giá cổ phiếu của doanh nghiệp chỉ dựa trên tỷ lệ nợ, doanh thu, chi phí lãi vay, lợi nhuận thuần, thu nhập trước thuế và sau thuế mà chưa thể có được đánh giá về tình trạng tài sản, vòng quay hàng tồn kho. Ngoài ra cơ sở đưa ra cho khoản bù trừ khi hợp nhất cũng chưa được hoạch định rõ là bù trừ cho phần nào. Vì vậy, để có cái nhìn tốt hơn, tập đoàn nên cung cấp báo cáo tài chính riêng lẻ của các công ty con đính kèm với báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn.
4.2.3. Xây dựng thông số cho các ngành
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có trên 15 năm phát triển, tuy nhiên các thông số về ngành vẫn chưa được xây dựng một cách thống nhất. Nguyên do thứ nhất là chưa có một văn bản pháp quy nào hướng dẫn phân chia ngành nghề một cách cụ thể. Mặc dù trên các trang web của các công ty
chứng khoán, hay của các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ tài chính đều có đưa ra những chỉ tiêu về ngành. Tuy nhiên, công thức tính toàn và việc xác định các công ty trong ngành còn chưa thống nhất, hoặc việc tính toán vẫn còn bỏ sót dẫn đến việc các kết quả sai lệch và không nhất quán. Một nhà đầu tư, hay một nhà phân tích độc lập khi lựa chọn các chỉ số ngành phải đối diện với rất nhiều tham khảo và dự báo khác nhau có thể bị hoang mang và khó có thể xác định đúng được giá trị thực của ngành nếu không trực tiếp đi vào tính toán. Đây là một trở ngại lớn đối với công tác phân tích và định giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Việc xác định các chỉ số về ngành nhất là tập đoàn lớn như Hoà Phát khi thiếu hụt các thông tin về ngành là một trở ngại rất lớn cho nhà phân tích khi định giá. Để có thể tính toán giá trị của ngành một cách xác thực nhất, các ngành nên xây dựng các thông số cho từng lĩnh vực cụ thể. Việc phân chia càng đi cụ thể càng tạo điều kiện cho nhà đầu tư dễ dàng xác định giá trị cổ phiếu.
4.3. Kiến nghị với cơ quan chức năng và các tổ chức có liên quan
4.3.1. Cần thiết phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp
Trước hết, biện pháp trước mắt để xây dựng một thị trường chứng khoán minh bạch và bền vững là cần tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà dầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ thống và chính xác.
Ngày 6/10/2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 155/2015/TT-BTC (Thông tư 155) hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, thay thế Thông tư số 52/2012/TT-BTC (Thông tư 52). Trên cơ sở tổng hợp những vướng mắc trên thực tế và tiếp thu ý kiến của các thành viên thị trường, nhiều nội dung đã được sửa đổi, bổ sung so với thông tư 52. Đây là một động thái rất tích cực từ các cơ quan quản lý nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm công bố
thông tin của các thành viên thị trường và các nhà đầu tư, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, đồng thời nâng cao tính công khai minh bạch của thị trường.
Hoạt động công bố thông tin càng minh bạch, càng được giám sát chặt chẽ từ các cơ quan chủ quản, càng làm cho hoạt động định giá cổ phiếu trở nên hiệu quả.
4.3.2. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán nhằm khắc phục các hạn chế về tuân thủ các chuẩn mực kế toán, tránh hiện tượng lách luật để trục lợi
Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Tăng cường tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm. Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”. Tăng số lượng Công ty niêm yết, đa dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mở rộng hoạt động cua các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường.
Không chỉ vậy, chính phủ cũng cần thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết, Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm". Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có một thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát
triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm của các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức của công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán.
4.3.3. Thành lập các tổ chức đánh giá tín nhiệm
Một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên về dịch vụ đưa ra ý kiến về độ tin cậy tín dụng của người phát hành chứng khoán. Nó là một ý kiến quan trọng về rủi ro tín dụng, hay là một đánh giá về khả năng của người phát hành thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó. Vì vậy, định mức tín nhiệm phải là một sự đánh giá trước khả năng của người phát hành hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Định mức tín nhiệm là gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của người phát hành. Nhờ có các thông tin về đánh giá tín nhiệm, nhà phân tích sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định chi phí vốn của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có một quy định nào rõ ràng về các tổ chức đánh giá tín nhiệm. Việc thành lập một tổ chức tín nhiệm cần phải đưa vào khuôn khổ pháp lý, thứ nhất là để đảm bảo an toàn cho người sử dụng thông tin từ các tổ chức tín nhiệm, thứ hai là để làm cho thị trường thêm hiệu quả. Nhà nước nên đưa ra các quy định về công ty xác định mức tín nhiệm vào luật chứng khoán và các luật khác. Một lựa chọn khác, có thể cần thiết chỉnh sửa luật chứng khoán của quốc gia để có được một sự thừa nhận đối với công ty định mức tín nhiệm. Khi luật chứng khoán được thực thi hoặc luật hiện hành được chỉnh sửa, chúng có thể đưa ra việc thừa nhận khả năng tạo ta một tổ chức định mức tín nhiệm.
4.3.4. Khuyến khích nhà đầu tư nâng cao hiểu biết trước khi tham gia thị trường chứng khoán.
Hiện nay, mặc dù có rất nhiều các lớp đầu tư chứng khoán mở ra phục vụ nhu cầu của nhà đầu tư tuy nhiên vẫn chưa thực sự hiệu quả và chưa thu hút được sự chú ý của nhà đầu tư. Do vậy, Chính phủ nên có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ có thể là thông qua các công ty chứng khoán, các trường đại học tổ chức các lớp đầu tư chứng khoán, cung cấp những kiến thức cần thiết cho nhà đầu tư khi tham gia thị trường.
Bên cạnh đó, phương tiện truyền thông như ti vi, loa đài, báo chí cũng nên tuyên truyền thêm cho nhà đầu tư về sự cần thiết phải có kiến thức khi tham gia thị trường chứng khoán nếu không muốn có những rủi ro đáng tiếc xảy ra. Nhà nước cũng nên tổ chức các bài giảng về chứng khoán trên ti vi hay các phương tiện truyền thông khác,điều này chắc chắn sẽ thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư và đem lại hiệu quả cao.
4.4. Kiến nghị đối với nhà đầu tư
4.4.1. Tích cực tìm hiểu và trang bị các kiến thức cần thiết trước khi tham gia thị trường chứng khoán
Đối với bất kỳ một lĩnh vực đầu tư nào, để đảm bảo vốn đầu tư của mình đang đi đúng hướng nhà đầu tư cần trang bị một lượng kiến thức cần thiết và phải tìm hiểu thật kỹ trước khi đầu tư. Với thị trường chứng khoán kiến thức của nhà đầu tư, đặc biệt là kiến thức về định giá cổ phiếu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự ổn định của thị trường. Để trang bị được các kiến thức đấy thì bản thân các nhà đầu tư phải luôn luôn học hỏi để ngày càng hoàn thiện kỹ năng phân tích và xử lý thông tin trên thị trường chứng khoán. Thường xuyên theo dõi thị trường kết hợp với phân tích kỹ thuật (đặc biệt là lượng cung – cầu) để nắm bắt diễn biến thị trường. Nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể cảm nhận khá chính xác rằng thị trường hoặc một cổ phiếu nào
đó sẽ tăng hay giảm, từ đó mua vào hay bán ra. Bên cạnh những lý thuyết đã được học, các nhà đầu tư cần có sự cọ xát thực tế bằng việc tham gia vào các buổi học thực hành tại các sở giao dịch chứng khoán. Bằng việc quan sát học hỏi các nhà đầu tư có kinh nghiệm từ đó vận dụng linh hoạt các kiến thức đã được học để từ đó áp dụng vào thực tế cũng như đúc kết và rút ra các kinh nghiệm thực tế cho bản thân mình.
4.4.2. Tránh đầu tư theo tâm lý bầy đàn
Một chân lý hiển nhiên quen thuộc là vào bất kỳ thời điểm nào, các thị trường tài chính luôn luôn bị chi phối bởi lòng tham và sự sợ hãi. Những thị trường mạnh nhất là những thị trường nhộn nhịp bởi đồng thời có cả lòng tham lẫn sự sợ hãi. Cụ thể hơn, bất cứ khi nào có người bán cổ phiếu thì người mua nó cũng sẽ nghĩ khác về những triển vọng tương lai của cổ phiếu đó. Người bán nghĩ nó sẽ giảm, người mua nghĩ nó sẽ lên. Hoặc người bán hoặc người mua sẽ đúng nhưng chắc chắn chỉ thông qua sự tương tác của những thái độ khác nhau như vậy thì thị trường mới nhộn nhịp đông kẻ mua- nhiều người bán.
Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ lẻ hiện nay dù đã có những hiểu biết nhất định về thị trường chứng khoán tuy nhiên vẫn thường xuyên đầu tư theo tâm lý bầy đàn. Khi thấy nhiều người mua vào, họ mua vào khi thấy nhiều người bán ra, với tâm lý chuyển từ lo âu sang hoang mang, từ hoang mang đến sợ hãi, rồi từ sợ hãi đến sợ bị bỏ rơi, họ cũng vội vàng bán ra các cổ phiếu của mình. Do vậy, khi tham gia thị trường chứng khoán, sau khi đã chọn cho mình một danh mục mà bản thân cho là tốt nhất, đặt các ngưỡng cắt lỗ và hiện thực hóa lợi nhuận, nhà đầu tư nên kiên trì theo phương pháp của mình, đồng thời theo dõi sát diễn biến trên thị trường để có hành động chốt lời hoặc cắt lỗ hợp lý. Tránh vì lòng tham mà chạy theo số đông, đổ xô mua những cổ phiếu thậm chí đang thua lỗ hòng tìm kiếm lợi nhuận lớn.