Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa bồ đề - 2


DANH MỤC CÁC HÌNH


Nội dung

Trang

Hình 3.1. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến thời gian ăn sợi của chủng nấm sò trắng

24

Hình 3.2. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự sinh trưởng, phát triển của hệ sợi (t là nhiệt độ C)

27

Hình 3.3. Biểu đồ so sánh năng suất trung bình của mỗi công thức trong cả 3 đợt thí nghiệm

32

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 57 trang tài liệu này.

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa bồ đề - 2


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài.

Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người không chỉ đơn giản ở vấn đề ăn, ở mà còn phải đáp ứng và cải thiện chất lượng cuộc sống ngày càng cao.

Các loại nấm ăn là nguồn thực phẩm bổ dưỡng, quý giá với hàm lượng protein cao, chỉ sau thịt và cá. Thành phần axit amin phong phú, có đủ loại axit amin không thay thế. Bên cạnh đó còn có các thành phần gluxit, vitamin, khoáng chất, axit béo (chủ yếu là axit không no, axit hữu cơ) [5].

Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn nhiều đặc tính biệt dược, có khả năng phòng và chữa các bệnh như hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu.... Ngoài ra, đã có một số nghiên cứu cho rằng, nấm ăn còn có khả năng góp phần chữa bệnh ung thư. Tuy nhiên hướng nghiên cứu này còn nhiều kì vọng ở tương lai [6], [13].

Về ẩm thực, nấm ăn được chế biến thành nhiều món từ chay đến mặn và mệnh danh là thứ thực phẩm vừa là “rau sạch”, vừa là “thịt sạch”.

Tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương như mùn cưa, rơm, rạ... từ nhiều năm trở lại đây nhiều mô hình trồng nấm đã được đưa ra và đang đem lại hiệu quả kinh tế, giúp người dân xoá đói giảm nghèo và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy, trồng nấm không những đem lại hiệu quả kinh tế cao, hơn nữa lại góp phần xử lý những sản phẩm phế thải công nghiệp, nông nghiệp nên nghề nấm còn góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống con người.

Nghề nuôi trồng nấm là nghề với tương lai đầy triển vọng. Sự thật là chỉ trong vài năm gần đây mà nhiều người nhờ trồng nấm đã giàu lên nhanh chóng.

Nhu cầu sử dụng nấm ăn trong xã hội ngày càng cao trong khi kỹ thuật nuôi trồng nấm đơn giản, cơ chất sử dụng chủ yếu từ nguồn phế thải nông


nghiệp, xí nghiệp sản xuất gỗ, quá trình nuôi trồng quay vòng nhanh…, việc trồng nấm đem lại lợi ích kinh tế cao. Đây là lợi thế ở các vùng nông thôn, việc trồng nấm dễ dàng lại ổn định công ăn việc làm cho người dân nói riêng và đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội nói chung. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa bồ đề ”.

2. Mục tiêu của đề tài.

2.1. Tìm hiểu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng trên giá thể mùn cưa bồ đề.

2.2. Tiến hành tuyển chọn được môi trường thích hợp cho sự phát triển của nấm sò trắng, góp phần tăng sản lượng và giá trị kinh tế của chủng nấm.

3. Ý nghĩa của đề tài.

3.1. Ý nghĩa khoa học.

Trên cơ sở nuôi trồng nấm trên một số môi trường khác nhau, tiến hành xác định điều kiện nuôi trồng thích hợp nhất trong từng giai đoạn phát triển, góp phần củng cố quy trình công nghệ nuôi trồng nấm sò trắng.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn.

Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để góp phần phát triển công nghệ nuôi trồng nấm, góp phần trồng nấm hiệu quả hơn, góp phần tăng chất lượng nấm và góp phần tận dụng những phế liệu nông, lâm nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tạo nên nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng, có giá trị dược học và kinh tế cao, đồng thời góp phần giúp giải quyết công ăn việc làm cho lao động dư thừa ở các vùng nông thôn.


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Nguồn gốc của nấm.

Trong một thời gian dài, các nhà phân loại học đã xếp nấm là thành viên của giới thực vật. Sự phân loại này chủ yếu được dựa trên sự tương đồng trong cách sống giữa nấm và thực vật. Cả nấm và thực vật chủ yếu đều không di động, hình thái và môi trường sống có nhiều điểm giống nhau. Thêm nữa, cả hai đều có thành tế bào, điều mà giới động vật không có. Tuy nhiên, hiện nay nấm lại được công nhận là một giới riêng biệt với thực vật hay động vật, chúng đã tách ra và xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những sự giống và khác về đặc điểm hình thái, sinh hóa và di truyền giữa nấm và các giới.

Hiện tại nấm được chia làm 7 ngành:

- Ngành Chytridiomycota hay Chytrid (Nấm roi - nấm trứng): Chúng tồn tại rải rác khắp nới trên thế giới. Chytrid sẽ sản sinh ra những bào tử động mà có khả năng di chuyển linh động trong môi trường nước với một tiên mao duy nhất. Vì thế một số nhà phân loại học đã phân loại chúng là những động vật nguyên sinh.

- Ngành Blastocladiomycota trước đây từng được cho là một nhánh phân loại của Chytridiomycota. Những dữ liệu phân tử và đặc điểm siêu cấu trúc gần đây đã đưa Blastocladiomycota vào một nhánh riêng giống như với các ngành Zygomycota, Glomeromycota Dikarya. Blastocladiomycetes là những sinh vật hoại sinh hoặc kí sinh của tất cả các nhóm sinh vật nhân chuẩn.


- Ngành Neocallimastigomycota: Những thành viên của ngành nhỏ này là những sinh vật kị khí, sống trong hệ thống tiêu hóa của những động vật ăn cỏ lớn và cũng có thể sống ở môi trường nước và mặt đất.

- Ngành Zygomycota (nấm tiếp hợp) có hai lớp: Zygomycetes và Trichomycetes. Loài mốc bánh mì đen (Rhizopus stolonifer) là loài phổ biến thuộc ngành này. Những nghiên cứu phát sinh loài phân tử đã chỉ ra rằng nấm tiếp hợp là nhóm đa ngành và có thể có cận ngành trong nhóm phân loại này.

- Ngành Glomeromycota là những nấm tạo ra nấm rễ mút phân nhánh ở thực vật bậc cao. Sự cộng sinh này đã có từ cổ đại, với những bằng chứng cho thấy đã có từ 400 triệu năm về trước.

- Phân giới Dikarya bao gồm hai ngành Ascomycota Basidiomycota khi cả hai ngành đều có nhân kép, chúng có thể dạng sợi hoặc đơn bào, nhưng không bao giờ có lông roi. Dikarya được gọi là "Nấm bậc cao", cho dù có nhiều loài sinh sản vô tính được phân loại vào nấm mốc trong các tài liệu trước đây.

Ngành Ascomycota (nấm túi hay nấm nang). Chúng tạo ra những bào tử giảm phân gọi là bào tử nang, được chứa trong một cấu trúc đặc biệt có dạng giống túi gọi là nang (ascus). Nhiều loài nấm nang chỉ trải qua quá trình sinh sản vô tính (ở nấm gọi là anamorph), tuy nhiên, những dữ liệu phân tử đã giúp nhận dạng được những giai đoạn hữu tính (teleomorph) gần nhất của chúng ở nấm nang.

Ngành Basidiomycota (Nấm đảm), sản xuất ra những bào tử đảm chứa trong những thân hình dùi gọi là đảm. Đa phần những loài nấm lớn đều thuộc ngành này [15].


1.2. Sự phát triển của nghề trồng nấm, giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm ăn đối với con người.

1.2.1. Sự phát triển của nghề trồng nấm.

Nấm ăn đã được nghiên cứu nuôi trồng từ rất xa xưa. Theo các tài liệu khảo cổ thì từ thời đại đồ đá cũ (5000 - 4000 năm trước công nguyên) những cư dân nguyên thuỷ ở Trung Quốc đã biết thu lượm và sử dụng nhiều loại nấm ăn từ thiên nhiên. Năm 300 trước công nguyên nấm ăn đã được xác định là thức ăn quí trong cung đình Trung Hoa. Năm 200 - 100 trước công nguyên, trong sách “Thần nông bản thảo binh” đã miêu tả tỉ mỉ hình thái, tính năng, công dụng của các loại nấm dùng làm thuốc chữa bệnh hoặc dùng để bồi dưỡng sức khoẻ như thanh chi, xích chi, hoàng chi, bạch chi, hắc chi, tử chi, phục linh, trư linh, tàm nhĩ, ngu mộc nhĩ…[2].

Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng trăm năm. Hiện nay có khoảng 2.000 loài nấm ăn được, trong đó có 80 loài nấm ăn ngon và được nghiên cứu nuôi trồng nhân tạo (UNESSCO- 2004). Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một ngành công nghiệp thực phẩm thực thụ [11].

Vấn đề nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều nước phát triển như Hà Lan, Pháp, Ý, Nhật Bản, Mỹ, Đức...nghề trồng nấm đã được cơ giới hóa cao, từ khâu xử lý nguyên liệu đến thu hái, chế biến nấm đều do máy móc thực hiện. Những “nhà máy” sản xuất nấm này có công suất từ 200 - 1000 tấn/ năm [12].

Các nơi ở khu vực Châu Á như Đài Loan, Trung Quốc, Malaixia, Indonexia, Singapo, Triều Tiên, Thái Lan…. Nghề trồng nấm cũng phát triển rất mạnh mẽ. Một số loại nấm ăn được trồng khá phổ biến [9].

Ở Việt Nam sản xuất nấm được xem là ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao thu hút sự tham gia của nhiều bà con nông dân. Trồng nấm được xem như


một nghề mang lại hiệu quả kinh tế góp phần giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo. Cùng với sự đóng góp tích cực của các nhà khoa học từ khâu cung cấp giống đến việc chuyển giao công nghệ nuôi trồng, chế biến sản phẩm đã giúp nông dân có thêm thu nhập từ nghề nấm. Những thành công nhiều mặt về nghiên cứu chọn tạo các chủng nấm ăn có giá trị và xây dựng qui trình nuôi trồng nấm dễ áp dụng, rẻ tiền đã đem lại nhiều ý nghĩa lớn về mặt kinh tế, xã hội [14].

Một số cơ sở nghiên cứu như Trung tâm Công nghệ sinh học thực vật - Viện di truyền nông nghiệp, Trung tâm Công nghệ sinh học - Đại học Quốc gia Hà nội, Khoa Sinh học - Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và chuyển giao một số quy trình sản xuất nấm phù hợp với điều kiện thực tế ở nông thôn.

Một số tỉnh, huyện đã xây dựng được các trung tâm, cơ sở sản xuất giống nấm cấp II, cấp III cung cấp cho nông dân. Xây dựng được các phong trào nuôi trồng nấm tương đối rộng khắp trong địa bàn cả nước, góp phần tạo ra công ăn việc làm, thu nhập cho nông dân và sản phẩm cho xã hội. Bước đầu hình thành được thị trường tiêu thụ nấm tươi trong nước có thể cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài.

1.2.2. Giá trị dinh dưỡng và dược liệu của nấm ăn.

Trong rất nhiều loại thực phẩm mà thiên nhiên giành cho con người thì nấm là một trong những loại thức ăn vừa giàu chất dinh dưỡng vừa có khả năng ngừa bệnh hiệu quả. Nấm ăn được là những loại nấm lớn, không độc hại, được dùng làm thực phẩm từ rất lâu đời.

Nấm ăn và nấm dùng làm dược liệu có rất sẵn trong tự nhiên. Tuy nhiên bên cạnh các nấm có giá trị dinh dưỡng cao, có hương vị thơm ngon hoặc có giá trị chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe, trong rừng hoặc ngoài cánh đồng còn không ít các loài nấm độc, có thể gây ngộ độc chết người. Chính vì vậy từ


lâu trên thế giới đã xuất hiện nghề trồng nấm với các giống nấm đã được chọn lọc, để vừa đảm bảo an toàn, vừa có nấm chất lượng cao vừa sản xuất được trên quy mô lớn.

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu nuôi trồng nấm ăn có bước phát triển nhảy vọt ở nhiều nước. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tìm được trên 720 loài nấm ăn và trong số này có tới trên 30 loài đã được nuôi trồng nhân tạo một cách có hiệu quả ở các quy mô khác nhau. Ngoài ra trên thế giới còn có tới trên 300 loài nấm lớn đã được xác minh là có giá trị dược liệu, có khoảng 20 loài đã có thể nuôi trồng nhân tạo.

Nước ta là một nước công nghiệp với nguồn phế phẩm giàu chất xơ và chất gỗ hết sức phong phú. Tỷ lệ nông dân chiếm phần lớn dân số, lại có nhiều thời gian nông nhàn và rất muốn có thêm nghề phụ để nâng cao thu nhập. Nước ta lại có nhiều vùng khí hậu không giống nhau và vì vậy có thể trồng nấm quanh năm với hàng chục loại nấm ăn và nấm dược liệu khác nhau [1].

1.2.2.1. Giá trị dinh dưỡng của nấm.

Nấm ăn là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, có hàm lượng protein cao và ít chất béo, chứa nhiều vitamin nhóm B và C. Nấm cũng giàu nguyên tố vi lượng, như sắt, selen, natri, kali, magie và phốt pho [3].

* Protein:

Nếu so sánh thì hàm lượng protein trong 1kg nấm Mỡ tương đương với 2kg thịt lợn nạc, cao hơn 1kg thịt bò (Ngô Thục Trân, 1987) so với một số loại rau thì ở nấm tươi có chứa protein cao gấp 12 lần. Hơn nữa nguồn protein từ nấm còn có lợi ích là không chứa cholesterol như nguồn protein từ động vật.

Trong nấm có khoảng 17 - 19 loại amino axit. Trong đó có đủ 9 loại amino axit không thay thế. Theo tài liệu thống kê trong 9 loại nấm thường dùng như nấm mỡ, nấm hương, nấm kim châm, nấm sò, nấm mộc nhĩ đen, mộc nhĩ trắng, nấm đầu khỉ… có tổng hàm lượng amino axit bình quân là

Xem tất cả 57 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí