Dù là liên minh như thế nào thì khi các doanh nghiệp liên kết lại với nhau đều mang lại lợi ích cơ bản như: tăng vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm; giảm thời gian thâm nhập thị trường và chu kỳ sống của sản phẩm; khả năng đóng góp các kỹ năng và tài sản bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự mình phát triển; tiếp cận với kiến thức và kinh nghiệm từ bên ngoài; nhanh chóng đạt được quy mô, khối lượng và tạo đà phát triển; mở rộng kênh phân phối và thị trường quốc tế.
2. Nguyên tắc tạo lập Tập đoàn kinh tế
Việc phát triển TĐKT dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tư nguyện và theo quy luật của thị trường. Các nguyên tắc đó là:
Phù hợp với chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Trước hết cần hình thành tập đoàn trọng điểm có khả năng thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển, tác động tích cực tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền: đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả theo khu vực.
Phân định rõ chức năng quản lý kinh doanh với các chức năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của tập đoàn không thể thực hiện cả hai chức năng quản lý kinh doanh và quản lý hành chính. Tập đoàn cần xác định không phải là cơ quan quản lý nhà nước cũng không phải là hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên được thiết lập trên cơ sở giữ cổ phần hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, không phải là quan hệ hành chính.
Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành TĐKT phải tuân theo các quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng mệnh lệnh hành chính, phải tuân theo phương thức tự nguyện đóng góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như vậy mới đảm bảo các mối quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức của tập đoàn.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu hoạt động của một số tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam - 1
- Nghiên cứu hoạt động của một số tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam - 2
- Tập Đoàn Tài Chính Có Phạm Vi Hoạt Động Rộng Lớn
- Mô Hình Tổ Chức Quản Lý Của Tập Đoàn Ở Một Số Nước
- Xu Hướng Hình Thành Tập Đoàn Tài Chính Ở Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Tóm lại, nguyên tắc hình thành TĐKT là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi tập đoàn, chống độc quyền trong hoạt động.
3. Một số mô hình Tập đoàn kinh tế của các nước trên thế giới
3.1 Mô hình Keiretsu của Nhật Bản
Trước Chiến tranh Thế giới thứ II, nền công nghiệp Nhật Bản bị kiểm soát bởi các tập đoàn lớn gọi là Zaibatsu. Đến những năm 40 của thế kỷ XX, các liên minh (Alliance) đã phá bỏ các Zaibatsu, nhưng các công ty được thành lập đã phá bỏ các Zaibatsu lại liên kết với nhau thông qua việc mua cổ phần để hình thành nên các liên minh liên kết theo chiều ngang giữa nhiều ngành nghề khác nhau. Từ đây Keiretsu ra đời. Do sở hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương mại chung, nên các doanh nghiệp trong Keiretsu thường có chiến lược kinh doanh giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, các công ty thành viên còn chia sẻ với nhau những bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị, thâm nhập thị trường.
Mỗi Keiretsu lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm. Ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các công ty thành viên của Keiretsu và nắm giữ vị thế về vốn trong các công ty. Mỗi một ngân hàng trung tâm có vai trò kiểm soát rất lớn đối với các công ty trong Keiretsu và hành động với tư cách là
một tổ chức giám sát và hỗ trợ tài chính trong các trường hợp khẩn cấp. Một trong những tác động của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng.
Trên thực tế có hai loại Keiretsu: Keiretsu liên kết dọc và Keiretsu liên kết ngang. Keiretsu liên kết dọc là điển hình của tổ chức và mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một ngành nghề nhất định). Các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu hoạt động như là những vệ tinh xoay quanh các nhà máy sản xuất lớn trên cơ sở chia sẻ về công nghệ, thương hiệu và quy trình tổ chức kinh doanh. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp này được thiết lập dựa trên lợi ích kinh tế, đồng thời là sự ràng buộc về niềm tin và sự trung thành nên rất bền chặt.
Trong khi đó, Keiretsu liên kết ngang thể hiện mối quan hệ giữa các thực thể, thông thường xoay quanh một ngân hàng và một công ty thương mại (thường gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác nhau). Sau chiến tranh, Nhật Bản có 6 Keiretsu liên kết ngang khổng lồ trong ngành công nghiệp gồm: Mitsubishi, Mitsu, Sumitomo, Dai – Ichi Kangyo, Fuyo và Sanwa. Thời kỳ suy thoái của Nhật Bản vào những năm 1990 đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các Keiretsu. Nhiều ngân hàng lớn đã chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các khoản nợ xấu và buộc phải sáp nhập hoặc đi đến phá sản. Từ đó mà có sự ra đời của Sumitomo Mitsui Banking Corporation vào năm 2001 là sự kết hợp của Ngân hàng Sumitomo và Ngân hàng Mitsui. Trong khi đó, Ngân hàng Sanwa (Ngân hàng thuộc Hankyu – Toho Group) trở thành một phần của Ngân hàng Tokyo – Mitsubishi UFJ.
Các Keiretsu ở Nhật Bản rất chú ý đến việc lựa chọn đội ngũ các nhà quản trị. Các TĐKT thường thích bổ nhiệm các nhà quản trị là người ngay tại địa phương bởi nhà quản trị địa phương thông hiểu những điều kiện hoạt động
và môi trường kinh doanh ở địa phương. Hơn nữa, người địa phương có thể tập trung vào các hoạt động nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn của tập đoàn mình sao cho phù hợp với địa phương. Với cách thức này, các tập đoàn Nhật Bản chỉ cần điều động một số ít chuyên gia ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng chuyên môn cần thiết và cách thức tiến hành các hoạt động kinh doanh chính yếu, đồng thời kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và phát triển năng lực cho nhà quản trị.
3.2 Mô hình Cheabol ở Hàn Quốc
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc đã có bước phát triển vượt bậc. Một trong những nhân tố làm nên những kỳ tích về kinh tế của Hàn Quốc chính là các doanh nghiệp nói chung và các Cheabol nói riêng với những chiến lược kinh doanh táo bạo và đầy tham vọng. Các Cheabol bắt đầu phát triển mạnh từ những năm 1950 -1960 theo mô hình công ty mẹ là công ty sở hữu thương hiệu (Brand name) và thực hiện chức năng đầu tư tài chính. Các công ty con có mối quan hệ liên kết về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động với công ty mẹ, ví dụ như Samsung, Daewoo hay LG.
Đặc trưng của Cheabol là toàn bộ các công ty thành viên thường do một hoặc một số ít gia đình sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối. Vì vậy việc quản lý điều hành trong các Cheabol mang đậm màu sắc gia tộc. Đó cũng là điều khác biệt cơ bản của tập đoàn Hàn Quốc với các nước công nghiệp phát triển khác. Chủ tịch hội đồng quản trị là người có quyền lãnh đạo tối cao và thường là cổ đông lớn nhất của tập đoàn. Mỗi tập đoàn đều có câu lạc bộ chủ tịch (Presidents Club) bao gồm các chủ tịch là đại diện công ty mà chủ tịch đó nắm vốn. Về mặt pháp lý, Cheabol không phải là một pháp nhân và không phải là một thực thể hữu hình. Các hoạt động kinh doanh đều thực hiện thông qua các công ty thành viên. Tuy nhiên cái bóng vô hình của Cheabol bao trùm
lên mọi hoạt động giao dịch kinh doanh của công ty thành viên chính là sự thống nhất về chiến lược kinh doanh, sự tập trung và phân bổ các nguồn lực một cách linh hoạt, phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Các tập đoàn ở Hàn Quốc và Nhật Bản đều xuất phát điểm từ lĩnh vực sản xuất công nghiệp và mở rộng dần ra các lĩnh vực khác. Từ sản xuất điện tử, ôtô đến các sản phẩm công nghiệp nặng như khai thác mỏ, tàu biển, hoạt động thương mại, dịch vụ, các sản phẩm tiêu dùng và cuối cùng là lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm.
3.3 Mô hình Jituan Gongsi ở Trung Quốc
Trung Quốc có kế hoạch chuẩn bị thành lập TĐKT từ những năm 80 của thế kỷ XX với hai đợt thí điểm thành lập 120 tập đoàn doanh nghiệp vào các năm 1991 và 1997. Nhà nước Trung Quốc đã tạo ra khung pháp lý cho tập đoàn doanh nghiệp ra đời và phát triển. Quá trình này bắt đầu bằng việc sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước thành những tổng công ty lớn. Cho đến khi đạt đến một quy mô nhất định nào đó, Tổng công ty sẽ phân quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành. Tiếp theo là giai đoạn đa dạng hóa sở hữu và hình thức nắm giữ cổ phần đan chéo giữa các doanh nghiệp thành viên thông qua việc cổ phần hoá và giảm tỷ lệ cổ phần của Nhà nước. Và cuối cùng là thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư vốn và chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các TĐKT của Trung Quốc tồn tại chủ yếu trên cơ sở các hình thức
sau:
Hình thức thứ nhất là TĐKT tổng hợp nhiều cấp. Đây là loại tập đoàn
doanh nghiệp nắm trong tay nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ, thương mại, tài chính, dịch vụ và lấy vốn làm nút liên kết chủ yếu. Chúng được tổ chức thành bốn cấp, thực hiện nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tính,
sáp nhập, xoá bỏ tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp cũ lập ra Tập đoàn doanh nghiệp trong đó công ty có tư cách pháp nhân làm nòng cốt (công ty mẹ) bằng cách nắm giữ cổ phần khống chế, thầu khoán, thuê các doanh nghiệp có liên quan. Doanh nghiệp nòng cốt sẽ nắm quyền lãnh đạo đối với các doanh nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ… biến chúng thành những doanh nghiệp cấp dưới trực tiếp (tức là công con) của tập đoàn. Các doanh nghiệp này vẫn bảo lưu tư cách pháp nhân của chúng, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc lập tương đối. Tóm lại, tập đoàn doanh nghiệp này phần nhiều là các tổ chức liên hiệp giữa các pháp nhân doanh nghiệp. Nó giúp điều chỉnh kết cấu tổ chức doanh nghiệp, bổ sung lợi thế cho nhau, sử dụng hiệu quả, hợp lý các yếu tố sản xuất, kinh doanh đa dạng, cùng có lợi.
Hình thức thứ hai là Tập đoàn theo mô hình liên kết dây chuyền. Loại này chủ yếu là tổ chức liên hiệp lỏng lẻo, lấy sản xuất làm nút liên kết. Chúng thường lấy một doanh nghiệp lớn làm nòng cốt của Tập đoàn, lấy sản phẩm nổi tiếng độc đáo của Tập đoàn này làm đặc trưng, áp dụng hình thức chuyên môn hoá, hiệp tác sản xuất, kinh doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hình thức thứ ba là Tập đoàn phối hợp đồng bộ. Loại tập đoàn này lấy hợp đồng nhận thầu công trình làm nút liên kết. Chúng hình thành chủ yếu dựa vào một số doanh nghiệp công nghiệp lớn, đơn vị nghiên cứu, thiết kế, lấy việc liên doanh nhận thầu đồng bộ hạng mục công trình lớn làm hình thức chủ yếu. Dưới sự lãnh đạo của hội đồng giám đốc, doanh nghiệp đầu đàn loại lớn tổ chức thành công ty liên doanh thống nhất, mạnh, lập ra các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân nhằm đạt được mục tiêu và lợi ích chung.
Hình thức thứ tư là Tập đoàn hoà nhập nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, lấy liên kết phát triển kỹ thuật làm nút liên kết. Loại tập đoàn này lấy những đơn vị nghiên cứu khoa học trong cùng ngành hoặc xí nghiệp công nghiệp lớn làm chủ thể, bổ sung cho nhau lợi thế khoa học - kỹ
thuật và vốn nhằm phát triển sản phẩm kỹ thuật cao từ đó chế tạo sản phẩm có giá trị cao, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hình thức thứ năm là Tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành: Đây là hình thức biến tướng của những liên hiệp xí nghiệp đặc biệt lớn có cùng ngành nghề.
Hình thức thứ sáu là Tập đoàn theo mô hình cổ phần: Loại tập đoàn này lấy công ty của Nhà nước có thực lực rất mạnh nắm giữ cổ phần khống chế làm doanh nghiệp nòng cốt. Toàn bộ tập đoàn lấy tài sản dưới hình thức cổ phần làm nút liên kết, hình thành thể liên hợp các pháp nhân, triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức cổ phần.
Chiến lược hoạt động tác nghiệp của các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc là đa dạng hoá, sản xuất kinh doanh theo chiều sâu và tiến tới quốc tế hoá. Các Tập đoàn doanh nghiệp không chỉ là những Tập đoàn xuyên vùng, xuyên ngành gồm nhiều hình thức sở hữu mà còn nhiều hình thức, nhiều chức năng sản xuất, thương mại, nghiên cứu khoa học, vận tải, tài chính, dịch vụ…Những năm gần đây, với ảnh hưởng mạnh mẽ của xu hướng mở cửa, hội nhập, các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc nhanh chóng vươn ra thị trường thế giới. Ví dụ: Công ty Gang thép Bắc Kinh đã mua 70% cổ phần của Công ty công trình Mácta (Mỹ) – một xí nghiệp luyện kim nổi tiếng thế giới, tạo nên một ưu thế mới trong cạnh tranh quốc tế; Công ty đầu tư tín dụng quốc tế của Trung Quốc hợp tác với ba công ty của Nhật Bản lập ra Công ty thương mại tại Tokyo; Ngân hàng Trung Quốc bắt tay với Ngân hàng nước ngoài lập ra Doanh nghiệp tài chính ở Hồng Kông.
Cùng với chính sách mở cửa, cải cách rất thông thoáng như hiện nay, đồng thời với việc Trung Quốc ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chắc chắn các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc sẽ còn tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trên con đường hội nhập quốc tế của mình.
II. Tập đoàn tài chính và sự hình thành Tập đoàn tài chính
1. Tập đoàn tài chính và xu thế hình thành, phát triển Tập đoàn tài chính
Cũng như TĐKT, TĐTC hiện chưa được đĩnh nghĩa một cách chính thống. Tuy nhiên, qua thực tế và qua những nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu: TĐTC là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính); mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nòng cốt. Các tập đoàn đều được thành lập một cách tự nguyện trên cơ sở các liên kết về vốn và hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp trọn gói các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh trước xu thế toàn cầu hoá.
Xu thế hội nhập và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp lý về tài chính - ngân hàng là nguyên nhân chính thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của các TĐTC. Khi phát triển đến mức độ nhất định và do nhu cầu của nền kinh tế, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán hay các thể chế tài chính đều vươn ra hoạt động đa năng và hướng ra toàn cầu thông qua những hình thức khác nhau như liên kết, hợp nhất, sáp nhập, thành lập các công ty trực thuộc. Mục tiêu của việc hình thành TĐTC là mở rộng quy mô hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn.
Tại Mỹ, đạo luật Gramm - Leach - Bliley được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua năm 1999 là kết quả của một quá trình hợp nhất các quy định pháp lý đối với thị trường dịch vụ tài chính trong nhiều thập kỷ. Với việc dỡ bỏ sự phân đoạn do Đạo luật Glass - Steagall quy định từ năm 1993, trong đó hạn chế sự