Như vậy, Năng lực cạnh tranh của DN có thể hiểu là khả năng cạnh tranh bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Cơ sở của năng lực cạnh tranh thường được xem xét dựa trên tỷ suất lợi nhuận của DN. Một DN có năng lực cạnh tranh khi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành hay đối thủ cạnh tranh. Để tăng tỷ suất lợi nhuận hoặc để tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành hoặc đối thủ cạnh tranh thì phải có một trong các điều kiện sau:
- Giá bán sản phẩm của DN trên thị trường phải cao hơn đối thủ cạnh tranh nhưng chi phí tương đương với mức trung bình của ngành.
- Chi phí cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn mức của đối thủ cạnh tranh mà giá lại tương đương với mức trung bình của ngành.
- Chi phí của một đơn vị sản phẩm thấp hơn và giá đơn vị sản phẩm cao hơn mức bình quân của ngành.
Như vậy để đạt được lợi thế cạnh tranh, DN phải có chi phí đơn vị sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh, hoặc phải làm cho sản phẩm của mình khác biệt với sản phẩm của đối thủ, hoặc phải thực hiện cả hai.
Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của DN, biểu thị cách thức cơ bản để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hoá sản phẩm mà bất kỳ một DN nào ở một ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể:
Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu vào cần thiết (chi phí) để tao ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận). DN càng nâng cao được hiệu quả thì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra càng thấp và như vậy thì DN sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí.
Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản phẩm được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng gắn với khả năng thoả mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000 "Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn". Người cung cấp phải tối ưu hoá chất lượng sản phẩm, không được để "thấp" hơn nhu cầu nhưng cũng không nên thừa hay "cao" quá mức cần
Có thể bạn quan tâm!
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam - 1
- Hoạt Động Giám Định, Bồi Thường Tổn Thất Và Đòi Người Thứ Ba
- Sự Cần Thiết Khách Quan Phải Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Tổng Quan Về Thị Trường Dịch Vụ Bảo Hiểm Việt Nam
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
thiết để khỏi ảnh hưởng đến giá cả. Sản phẩm có chất lượng cao giúp DN tăng uy tín, từ đó có thể tăng giá bán.
Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công nghệ, hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức... của DN. Trong đó đổi mới công nghệ được coi là nguồn chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp DN khác biệt hóa sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các DN vì thế thường sản xuất theo seri sản phẩm, không duy trì lâu hoặc với khối lượng lớn một sản phẩm nào đó. Điển hình như kiểu dáng ô-tô, ti-vi, radio, máy tính...
Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, DN cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn.
Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục tiêu đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều DN có năng lực cạnh tranh. Và ngược lại các DN chỉ có thể cạnh tranh tốt trong nền kinh tế quốc gia thuận lợi, chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu hạ tầng đảm bảo...
Mặt khác tính năng động nhạy bén trong quản lý DN cũng là một yếu tố quan trọng, bởi vì trong cùng một môi trường kinh doanh có DN thành công nhưng cũng có DN bị thất bại.
Bên cạnh đó DN chỉ có sức cạnh tranh cao khi sản phẩm của mình có năng lực cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngoài chất lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào danh tiếng va uy tín của DN.
Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và của nền kinh tế đất nước. Hiện nay nước ta đang tiến sâu vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày càng trở nên bức bách. Trong đó tính chr động tịch cực, sáng tạo của các doanh nghiệp giữ vai trò quyết định.
1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1.1. Khái niệm
BH được phân thành hai nhóm lớn là: BHNT và BHPNT. Trong đó:
- BHNT là loại hình BH mà các sự kiện được BH đều liên quan đến cuộc sống và sinh mạng của con người, thường có tính chất dài hạn nhiều năm và gắn với tiết kiệm.
- BHPNT bao gồm các loại hình BH còn lại, nó được sử dụng như một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ BH thiệt hại (BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ BH con người không thuộc BHNT (như BH tai nạn, bệnh tật, ốm đau, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật...). Mục đích chủ yếu của BHPNT là nhằm bồi thường cho người được BH những hậu quả của một biến cố ngẫu nhiên gây thiệt hại đến tài sản, lợi ích và con người của họ. Theo điều 3, chương 1, Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ BHPNT như sau: " Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc BHNT".
1.2.1.2. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
Trên thị trường thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiệp vụ (sản phẩm BH) khác nhau. Tuỳ theo các tiêu thức phân chia khác nhau mà các nghiệp vụ BHPNT có thể phân chia thành các loại cơ bản sau:
* Theo nhóm khách hàng: gồm có
- Nhóm các sản phẩm dành cho cá nhân
- Nhóm các sản phẩm dành cho các tổ chức
Việc phân loại theo tiêu thức này giúp DN quản lý và thiết kế được các sản phẩm phù hợp, đáp ứng được nhu cầu riêng của các cá nhân cũng như phục vụ nhu cầu công việc của cac tổ chức.
* Theo loại hình sản phẩm: bao gồm:
- Nhóm sản phẩm BH riêng lẻ.
- Nhóm sản phẩm BH trọn gói.
Phân lọai theo tiêu thức này sẽ giúp DN dẽ dàng trong việc quản lý sản phẩm, đồng thời có kế hoạch kết hợp các sản phẩm riêng lẻ nhằm tạo ra các sản phẩm BH trọn gói.
* Theo phương thức phân phối sản phẩm: bao gồm:
- Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh phân phối truyền thông.
- Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh "phản hồi trực tiếp".
Việc phân loại theo tiêu thức này sẽ giúp DNBH quản lý được sản phẩm theo kênh phân phối và có chiến lược thiết kế các sản phẩm phù hợp để chào bán qua các kênh phân phối đó.
* Theo đối tượng BH: Theo tiêu thức này, nghiệp vụ BH được chia thành ba nhóm:
- BH tài sản (BHTS)
- BH trách nhiện dân sự (BHTNDS).
- BH con người phi nhân thọ (BHCN).
+ Bảo hiểm tài sản: Đây là loại hình BH mà đối tượng BH là tài sản (cố định hay lưu động) của người được BH.
Ví dụ: BH cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, BH hàng hoá của các chủ hàng trong BH hàng hoá xuất nhập khẩu, BH tài sản của chủ nhà trong BH trộm cắp.
Giá trị BH là giá trị thực tế của tài sản tham gia BH, nó là căn cứ quan trọng để tính phí BH và giới hạn thanh toán tiền bồi thường BH. Nghĩa là số tiền bồi thường mà bên được BH nhận được trong mọi trường hợp đều không được vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố BH.
Ví dụ: Một chủ xe máy tham gia BH cho toàn bộ xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, chiếc xe bị hư hỏng với giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng. Như vậy số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong mọi trường hợp chỉ là 8 triệu đồng.
+ BH trách nhiệm dân sự: Theo Luật dân sư, trách nhiệm dân sụ của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp...) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về con người, tài sản...gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó.
Ví dụ: BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ lao động; BH trách nhiệm sản phẩm; BH trách nhiệm công cộng...
Khác với BH tài sản và BH con người, đối tượng được BH của loại hợp đồng này là một khái niệm trìu tượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy nhiên trách nhiệm bồi thường của BH vẫn căn cứ vào các thiệ hại thực tế xảy ra cho người thứ ba.
+ BH con người phi nhân thọ: là loại hình BH có đối tượng được BH là tính mạng, tình trạng sức khoẻ hoặc các sự kiện liên quan và ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Nhưng khác với BH con người nhân thọ ở chỗ: BH con người phi nhân thọ là loại hình BH chỉ liên quan đến các rủi ro của con người như: tai nạn, bệnh tật, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ của con người. Ví dụ: BH tai nạn 24/24, BH tai nạn hành khách, BH khách Du lịch...
Khi thanh tóan tiền BH, "nguyên tắc khoán" được áp dụng chủ yếu khi thanh toán tiền BH. Tức là về nguyên tắc, số tiền chi trả BH sẽ dựa vào qui định chủ quan của hợp đồng và số tiền BH được thoả thuận khi ký kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Bởi vì tính mạng của con người là vô giá, không thể xác định được bằngmột khoản tiền nào đấy. Cho nên việc thanh toán tiền BH trong nghiệp vụ BH con người chỉ mang tính trợ giúp về tài chính khi không may gặp rủi ro. Tuy nhiên, có thể áp dụng kết hợp với nguyên tắc bồi thường khi thanh toán các chi phí y tế phát sinh nằm trong phạm vi được BH của các hợp đồng BH con người.
1.2.2. Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Mục đích bảo hiểm
BH được biết đến trước hết như một phương pháp chuyển giao rủi ro hữu hiệu và mục đích của các nghiệp vụ BHPNT thể hiện rất rõ ý nghĩa của phương pháp đó. Lý do chính đáng cho việc giao kết các hợp đồng BHPNT là sự chuyển giao các tổn thất tài chính có thể xảy ra từ người mua BH cho công ty BH. Khi xảy ra tổn thất, công ty BHPNT thực hiện triệt để việc xác định giới hạn cũng như trách nhiệm bồi thường đã được quy định trong hợp đồng BH đã được giao kết với người được BH, do đó giúp bên được BH khắc phục hậu quả về mặt vật chất, tài chính.
Một lý do mà vì nó không ít các hợp đồng BHPNT được ký kết cũng khá đặc biệt, đó
là:
+ Nhằm tuân thủ các qui định của luật pháp về việc bắt buộc phải mua BH đối với các loại hình bảo hiểm như: đối với các cá nhân, tổ chức và công ty có tài sản nguy hiểm về cháy nổ bắt buộc phải mua BH Cháy, nổ; đối với Dự án xây dựng thì bắt buộc các nhà thầu hoặc chủ dự án phải mua BH Xây dựng lắp đặt. Ngoài ra còn có bảo hiểm Trách nhiệm dân sự cho người thứ 3 đối với những người sử dụng và vận hành xe mô tô, xe gắn máy, ô tô...
+ Trong các hoạt động kinh doanh XNK để phù hợp với các tập quán, thông lệ quốc tế thì việc bắt buộc phải có các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá là không thể thiếu.
Những quy định và tập quán trên không bao giờ áp dụng đối với BHNT. Vì thế, những lý do rất riêng trong mục đích BH có thể coi là đặc trưng thứ nhất của BHPNT.
1.2.2.2. Sự chênh lệch về “giá trị” giữa các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ
Trước sự đa dạng của đối tượng BH, rủi ro BH.., các DNBHPNT buộc phải tận dụng mọi khả năng có thể, khai thác triệt để mọi cơ hội để thực hiện luật số lớn nhằm giảm thiểu rủi ro mình. Vì vậy, cho dù có là đề nghị về một hợp đồng BH khiêm tốn với số tiền BH vài chục triệu VNĐ hay những hợp đồng BH lớn mà số tiền BH lên đến đôi ba trăm tỷ VNĐ. Cũng vì lẽ đó mà hình thức đồng BH và nhất là tái BH được sử dụng như là một trong những công cụ hữu hiệu trong việc khai thác các hợp đồng BH. Nếu như tái BHNT gặp không ít khó khăn từ việc phải đáp ứng những yêu cầu về môi trường đầu tư để có thể đảm bảo lãi suất đầu tư kỹ thuật thì trong BHPNT vấn đề hóc búa này không phải là vấn đề chính ảnh hưởng đến quyết định tiến hành nhận hay nhượng TBH hay không giữa công ty BH gốc và công ty nhận tái BH; mà chủ yếu phụ thuộc vào rủi ro được bảo hiểm và điều kiện, điều khoản được giao kết trong hợp đồng gốc.
1.2.2.3. Mức độ ràng buộc về các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng BH bao hàm các cam kết đã thoả thuận giữa bên mua BH và DNBH cho một thời hạn nhất định. Các trường hợp huỷ bỏ, ngừng thực hiện cam kết phải tuân theo pháp luật về chấm dứt hợp đồng BH. Thực tế, điều này đã được quy định rất rõ ràng trong "Luật kinh doanh bảo hiểm". Đối với bên mua cũng như bên bán BH, sự ràng buộc về cam kết phải được xác định rõ trong hợp đồng BH. Theo đó bên mua và bên bán BH có nghĩa vụ thực hiện các cam kết đã được quy định trong hợp đồng BH đến hết thời hạn BH, ngoại
trừ vì lý do nào đó phải chấm dứt hợp đồng BH trước thời hạn theo qui định của pháp luật. Điều này rất khác với BHNT. Trong BHNT bên mua BH có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào mà không cần phải viện dẫn lý do.
Những hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu một khi chấm dứt hợp đồng trước thời điểm kết thúc thời hạn BH trong BHPNT rất đa dạng. Đáng chú ý là: nếu như trong BHNT, DNBH không được khởi kiện đòi bên mua BH đóng phí BH thì đối với BHPNT đó là điều được phép và cần phải làm trong một số trường hợp nhất định.
1.2.2.4. áp dụng kỹ thuật phân chia
Thời hạn các hợp đồng BHPNT thường ngắn và có sự khác nhau rõ rệt giữa các nghiệp vụ BH. Chẳng hạn như: đối với BH xe cơ giới thời hạn BH thường là một năm, trong khi đó, có những hợp đồng BH hàng hoá vận chuyển chỉ kéo dài một vài tháng, thậm chí thời hạn BH của BH tai nạn hành khách có thể chỉ là vài ba giờ. Nhưng thông thường thời hạn BH của các hợp đồng BH thường là một năm. Điều đáng lưu ý là: trách nhiệm bồi thường (hoặc trả tiền BH) của DNBH vẫn có thể phát sinh sau thời điểm kết thúc thời hạn BH. Một số nghiệp vụ BH trách nhiệm dân sự vẫn được mệnh danh là loại “Long tail business” tức là trách nhiệm bồi thường có thể kéo dài đến cả chục năm sau đó. Trong khi đó, phí BH có thể thanh toán toàn bộ ngay khi giao kết hợp đồng BH hoặc vài ba kỳ thanh toán trong thời hạn BH. Vì thế, việc quản lý tài chính thu chi các nghiệp vụ phải áp dụng kỹ thuật phân chia. Yêu cầu cơ bản khi áp dụng kỹ thuật phân chia là: việc xác định kết quả kinh doanh nghiệp vụ vào thời điểm khoá sổ kế toán (31/12) phải tính đến các dự phòng nghiệp vụ.
Các loại dự phòng nghiêp vụ cơ bản của DNBHPNTgồm có: dự phòng phí chưa được hưởng, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn. Hơn nữa, kỹ thuật phân chia còn đòi hỏi các phương pháp trích lập phải phù hợp với đặc tính của từng loại nghiệp vụ BH. Chẳng hạn, đối với trích lập dự phòng phí chưa được hưởng, nếu là BH xe cơ giới với thời hạn BH phần lớn là một năm nên có thể sử dụng phương pháp 1/8, nhưng BH hàng hoá vận chuyển lại cần sử dụng phương pháp 1/24 hoặc 1/365 vì thời hạn các hợp đồng BH ngắn.
1.2.2.5. Đối tượng được bảo hiểm và cơ sở để tính toán số tiền được bảo hiểm
Khác với BHNT, đối tượng được bảo hiểm trong BHPNT thường là tài sản của người được BH. Trong BHNT giới hạn hợp đồng BH là vô hạn do đối tượng được bảo hiểm là con người và thường thì giới hạn hợp đồng là do người mua BH lựa chọn trên cơ sở nhu cầu của bản thân hoặc sự đề nghị của DNBH. Còn trong BHPNT số tiền bảo hiểm chủ yếu được tính trên cơ sở giá trị thị trường của tài sản được BH tại thời điểm giao kết hợp đồng BH.
1.2.2.6. Nguy cơ trục lợi
Một đặc trưng nữa của BHPNT là khả năng trục lợi là rất cao. Điều này phụ thuộc vào đạo đức và tính trung thực của người mua BH. Cụ thể: do đối tượng được BH chỉ là tài sản vì vậy người được BH có thể vì một lý do nào đó tự tiêu hủy tài sản của mình. Chẳng hạn như: tự đốt cháy chính căn nhà của mình hoặc xưởng sản xuất của mình sau đó tiền hành đòi tiền BH từ DNBH. Điều khó khăn là nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó là vô tình hay cố ý lại thuộc về DNBH. Vì vậy, một trong những quy tắc bất di bất dịch trong BHPNT khi giao kết hợp đồng BH là quy tắc “trung thực tuyệt đối”.
1.2.3. Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Cũng giống như toàn bộ các DNBH, hoạt động kinh doanh BH của một DNBHPNT thường bao gồm những nội dung sau:
1.2.3.1. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm
* Hoạt động kinh doanh BH: là hoạt động cơ bản của DNBH nhằm mục đích sinh lời. Đây là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho người tham gia BH, thu phí BH, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng BH cho đến khâu giám định tổn thất và giải quyết bồi thường BH.
Kinh doanh BH phải đảm bảo nguyên tắc có tính chất quy luật là "số đông bù số ít". Theo quy luật đó, DNBH phải thu hút được nhiều người tham gia vào một nghiệp vụ hay một sản phẩm BH cụ thể.
Quy trình thực hiện công việc kinh doanh BH bắt đầu từ việc DNBH thông qua mạng lưới đại lý hoặc các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ BH tới từng khách hàng có nhu cầu. Sau khi hai bên thống nhất được các điều kiện cơ bản thì hợp đồng BH được thiết lập.