Tác giả Huỳnh Văn Sơn (Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ) cho rằng, những quan niệm về kỹ năng như trên đây là sự mô tả chính xác chỉ đối với những kỹ năng đơn giản mà thao tác có thể quan sát được; các kỹ năng phức tạp thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực của trí tuệ căng thẳng và khó có thể tự động hóa được. Kỹ năng đơn giản chưa thể được xem là năng lực; nó chỉ là một điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ của năng lực. [38]
Quan niệm thứ hai: xem kỹ năng như là một năng lực của con người
Từ điển tiếng Nga (1968) định nghĩa: Kỹ năng là khả năng làm một cái gì đó, khả năng được hình thành bởi tri thức, kinh nghiệm [16]. Hai nhà nghiên cứu K.K. Platonov và G.G. Golubev (1977) cũng cho rằng kỹ năng là năng lực của một người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong một khoảng thời gian tương ứng. Đồng thời, “kỹ năng luôn được nhận thức. Cơ sở tâm lý của nó là sự hiểu biết về mối quan hệ qua lại giữa mục đích hành động, các điều kiện và phương thức thực hiện hành động”. [12]
A.V. Petrovxki cho rằng “Kỹ năng là cách thức cơ bản để chủ thể thực hiện hành động, thể hiện bởi tập hợp những kiến thức đã thu lượm được, những thói quen và kinh nghiệm”. Cụ thể hơn, tác giả viết: “năng lực sử dụng các sự kiện, các tri thức hay kinh nghiệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định, được gọi là kỹ năng”. [31]
Cùng quan điểm này, các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Thị Quốc Minh cũng cho rằng, kỹ năng là một mặt của năng lực con người thực hiện một công việc có kết quả.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng, kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. [37, tr.6]
Như vậy, với những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, kỹ năng không chỉ là thao tác mà còn là biểu hiện của năng lực. Rõ ràng kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định. Nói
khác đi, một người có kỹ năng hành động là phải nắm bắt được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm hành động thực hiện có hiệu quả. Mặt khác có thể hiểu kỹ năng là năng lực của người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng. Việc hình thành kỹ năng bao hàm cả thông hiểu mối qua lại giữa mục đính hành động, điều kiện và cách thức hành động. Kỹ năng là giai đoạn trung gian giữa việc nắm vững cách thức mới thực hiện hành động, dựa trên cơ sở của tri thức và sự vận dụng đúng những tri thức tương xứng trong quá trình hoàn thành các bài tập, nhưng chưa đạt tới mức độ kỹ xảo.
Như vậy, cách thức xem xét kỹ năng nghiêng về năng lực của con người để thực hiện các công việc có kết quả đã bao hàm cả quan niệm kỹ năng là kỹ thuật hành động trong đó, bởi chỉ khi sự vận dụng tri thức vào thực tiễn một cách thuần thục thì mới có được kết quả công việc có chất lượng. Trên cơ sở đó, chúng tôi cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con người”.
* Đặc điểm của kỹ năng
Phân biệt kỹ năng với kỹ xảo. Trong kỹ xảo, ít có sự tham gia của ý thức, thậm chí có khi không có sự tham gia của ý thức và đôi khi có kiểm tra bằng cảm giác vận động, tầm tri giác được mở rộng. Ở các kỹ năng lại có những điểm riêng biệt như sau:
- Ý thức đóng vai trò tích cực và thường trực. Trong quá trình thực hiện một hành động, chủ thể thực hiện một kỹ năng nào đó thì chính chủ thể luôn sử dụng ý thức để nhận biết được các thao tác và hành động cụ thể.
- Khi thực hiện kỹ năng, chủ thể phải sử dụng các loại tri thức khác nhau để kiểm tra các thao tác thực hiện.
- Tùy vào từng mức độ kỹ năng của mỗi chủ thể mà các thao tác được thực hiện đầy đủ, chính xác đến mức độ nào. Tuy nhiên, khi thực hiện kỹ năng, thường những
động tác phụ chưa được loại trừ.
- Trong kỹ năng, có sự thống nhất giữa tính ổn định và tính linh hoạt: có nghĩa là kỹ năng không nhất thiết gắn liền với một đối tượng nhất định, mà trong trường hợp kỹ năng ở mức độ cao thì chủ thể có khả năng di chuyển linh hoạt và dễ dàng sang những đối tượng mới.
* Mức độ kỹ năng
Theo quan điểm của V.B. Bexpalko, có 5 mức độ kỹ năng: từ những kỹ năng ban đầu đến kỹ năng đạt ở mức độ hoàn hảo.
- Mức độ 1: Kỹ năng ban đầu
Người học đã có kiến thức về nội dung một dạng kỹ năng nào đó, và trong những tình huống cụ thể khi cần thiết, sẽ có thể tái hiện được những thao tác, hành động nhất định. Tuy nhiên, ở mức độ kỹ năng ban đầu này thì người học thường chỉ thực hiện được yêu cầu của kỹ năng này dưới sự hướng dẫn của người dạy.
- Mức độ 2: Kỹ năng thấp
Khác với mức độ 1, ở mức độ kỹ năng mức thấp, người học đã có thể tự thực hiện được những thao tác, hành động cần thiết, sẽ có thể tái hiện được những thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Song, ở mức độ kỹ năng này, người học chỉ thực hiện được những thao tác, hành động trong những tình huống quen thuộc và chưa di chuyển được sang những tình huống mới.
- Mức độ 3: Kỹ năng trung bình
Người học tự thực hiện thành thạo các thao tác trong những tình huống quen thuộc. Tuy vậy, việc di chuyển của các kỹ năng sang tình huống mới còn hạn chế.
- Mức độ 4: Kỹ năng nâng cao
Một sự khác biệt thể hiện kỹ năng ở mức độ cao là người học đã tự lựa chọn hệ thống các thao tác, các hành động cần thiết trong các tình huống khác nhau. Bên cạnh đó, người học đã biết di chuyển kỹ năng trong phạm vi nhất định.
- Mức độ 5: Kỹ năng hoàn hảo
Đây là mức độ cao nhất của kỹ năng. Người học nắm được đầy đủ hệ thống các thao tác, hành động khác nhau, biết chọn lựa những thao tác, hành động cần
thiết và ứng dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống khác nhau mà không gặp khó khăn gì. [38, tr.20-21]
Trong từ điển rút gọn các khái niệm Tâm lý học của Nga và cũng là quan niệm của K.K. Platonov và G.G. Golubev, năm mức độ hình thành kỹ năng như sau:
Bảng 1.1: Bảng phân chia các mức độ kỹ năng theo quan điểm của K.K. Platonov và G.G. Golubev
Các mức độ | Miêu tả | |
1 | Mức độ 1 | Có kỹ năng sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử và sai, dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm. |
2 | Mức độ 2 | Biết cách thực hiện hành động nhưng không đầy đủ. |
3 | Mức độ 3 | Có những kỹ năng chung nhưng còn mang tính chất rời rạc, riêng lẻ. |
4 | Mức độ 4 | Có những kỹ năng chuyên biệt để hành động. |
5 | Mức độ 5 | Vận dụng sáng tạo những kỹ năng trong các tình huống khác nhau. |
Có thể bạn quan tâm!
- Kỹ năng sống của trẻ 5-6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Kỹ năng sống của trẻ 5-6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Kỹ năng sống của trẻ 5-6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh - 3
- Đặc Điểm Phát Triển Tâm Sinh Lý Của Trẻ 5 – 6 Tuổi [22, Tr.117-215]
- Đặc Điểm Phát Triển Kỹ Năng Sống Của Trẻ 5 – 6 Tuổi
- Vai Trò Của Kỹ Năng Sống Đối Với Sự Phát Triển Chung Của Trẻ 5 – 6 Tuổi
Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.
Còn có nhiều tác giả khác nữa đã đưa ra các phân loại trong lĩnh vực kỹ năng, như R.H. Dave (1967), E.J. Simpson (1972) và A.J. Harrow (1972). Dưới đây sẽ giới thiệu cách phân loại của Dave, theo đó lĩnh vực kỹ năng được chia thành các mức độ hành vi từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất như sau:
- Bắt chước thụ động (Imitation): Làm theo hành vi của một người khác một cách thụ động.
- Thao tác theo (Manipulation): Thực hiện các thao tác theo một sự hướng dẫn quy trình từng bước.
- Tự làm đúng (Precision): Thực hiện được một nhiệm vụ với sai sót nhỏ và dần chính xác hơn mà không có nguồn hướng dẫn. Thể hiện thao tác trơn tru, chính xác.
- Khớp nối được (Articulation): Sắp xếp được một chuỗi thao tác bằng cách kết hợp hai hay nhiều kỹ năng, có thể cải tiến thao tác cho phù hợp để giải quyết một vấn đề gì đó.
- Thao tác tự nhiên (Naturalisation): Chứng tỏ mức độ thực hiện thao tác một cách tự nhiên như bản năng (“không cần suy nghĩ”). Các kỹ năng được kết hợp,
thao tác trình tự, thực hiện nhất quán dễ dàng, tức là mất ít năng lượng và thời gian. [10, tr.15-16]
Có thể biểu diễn các mức hành vi trong lĩnh vực kỹ năng trên hình sau.
Biểu đồ 1.1. Biểu diễn 5 mức độ hành vi từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất của
R.H. Dave
1.2.1.2. Khái niệm kỹ năng sống
Quan niệm của UNESCO cho rằng: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày.
Theo UNICEP, kỹ năng sống là những hành vi cụ thể, thể hiện khả năng chuyển đổi kiến thức và thái độ thành hành động thích ứng trong cuộc sống. Kỹ năng sống phải dựa trên nhận thức, thái độ và chuyển biến thành hành vi như một yêu cầu liên hoàn và có định hướng. Giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi.
Theo WHO thì kỹ năng sống là năng lực tâm lý - xã hội thể hiện khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái sức khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này.
Tác giả Xkomni thì cho rằng: Kỹ năng sống là khả năng con người thực hiện những hành vi thích ứng với những thách thức và những đòi hỏi của cuộc sống. Kỹ năng sống thể hiện năng lực sống của con người trong cuộc sống cá nhân, trong mối quan hệ xã hội…
Từ góc độ tâm lý học tác giả Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: Kỹ năng sống là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống kỹ năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và tham gia vào cuộc sống hằng ngày có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống. [39, tr.1-4]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: Kỹ năng sống là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý, kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống. Tác giả cho rằng kỹ năng sống nhìn dưới góc độ năng lực tâm lý là những kỹ năng giúp con người tồn tại về mặt thể chất và mặt tâm lý. [31, tr.7-9]
Một số nhà nghiên cứu về Tâm lý học – Xã hội học cũng có cái nhìn gần với WHO thì cho rằng, kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và thái độ, được thể hiện bằng những hành vi giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả các yêu cầu, thách thức đặt ra của cuộc sống và thích nghi với cuộc sống.
Theo quan niệm của chúng tôi, kỹ năng sống là những năng lực tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân thích ứng và tồn tại trong cuộc sống. Và, cũng chính những kỹ năng này giúp cá nhân thể hiện năng lực của mình thích nghi với những thách thức trong cuộc sống và phát triển.
1.2.1.3. Phân loại kỹ năng sống
Tùy theo quan niệm khác nhau về kỹ năng sống mà số lượng và tên gọi của những kỹ năng sống sẽ khác nhau. Có thể đề cập đến những cách phân loại sau.
a. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
Theo WHO, danh sách kỹ năng sống có thể rất dài, nhưng các kỹ năng có thể được chấp nhận ở những nền văn hóa khác nhau được xác định là các kỹ năng cơ bản sau: - Lấy quyết định; - Giải quyết vấn đề; - Suy nghĩ sáng tạo; - Suy nghĩ có
phán đoán; - Truyền thông có hiệu quả; - Giao tiếp giữa người và người; - Ý thức về bản thân; - Khả năng thấu cảm; - Ứng phó với cảm xúc; - Ứng phó với stress.
Kỹ năng sáng tạo góp phần vào việc lấy quyết định và giải quyết vấn đề, bằng cách giúp chúng ta xem xét tất cả các biện pháp khác nhau và suy nghĩ về các hậu quả khác nhau của việc chúng ta hành động hay không hành động.
Kỹ năng ra quyết định giúp chúng ta chọn những quyết định tích cực liên quan đến cuộc sống của chúng ta.
Kỹ năng giải quyết vấn đề giúp ta xử lý những khó khăn gặp phải một cách tích cực nhất. Những vấn đề gặp phải nếu không quan tâm giải quyết sẽ gây ra stress, dẫn theo những xáo trộn về cuộc sống và sức khoẻ.
Truyền thông có hiệu quả là khi chúng ta diễn đạt suy nghĩ của mình bằng lời nói hay không bằng lời nói, một cách phù hợp với hoàn cảnh hay bối cảnh văn hóa. Điều này có nghĩa là khả năng diễn đạt những ước muốn cũng như tìm sự tham vấn khi cần.
Kỹ năng giao tiếp giúp ta quan hệ một cách tích cực với những ai tương tác với chúng ta. Có nghĩa là kết bạn, gìn giữ tình bạn vì điều này có thể rất quan trọng cho sức khỏe tinh thần và xã hội của ta. Nó cũng có nghĩa là giữ mối quan hệ tốt với gia đình, nguồn hỗ trợ quan trọng. Nhưng cũng có ý nghĩa cắt đứt các mối quan hệ một cách xây dựng.
Ý thức về bản thân bao gồm sự nhìn nhận về bản thân, tính tình, mặt mạnh, mặt yếu, ước muốn của chúng ta cũng như những điều mà chúng ta không thích. Ý thức về bản thân giúp chúng ta nhận ra stress hay tình trạng bị áp lực để ứng phó kịp thời. Ý thức về bản thân là một tiền đề quan trọng để truyền thông và giao tiếp có hiệu quả cũng như để thấu cảm với người khác.
Khả năng thấu cảm là khả năng hình dung hoàn cảnh sống của người khác mà có khi họ còn xa lạ với ta. Thấu cảm giúp ta chấp nhận người kia dù họ rất khác với chúng ta. Điều này sẽ giúp cải thiện các mối tương tác xã hội. Đồng thời, thấu cảm còn giúp chúng ta có thái độ phù hợp với những người cần sự giúp đỡ, chăm sóc của chúng ta.
Ứng phó với cảm xúc, đó là nhìn nhận các cảm xúc nơi ta và người khác, ý thức rằng cảm xúc ảnh hưởng đến hành vi như thế nào và có khả năng ứng phó với cảm xúc một cách phù hợp.
Ứng phó với stress, đó là biết nhận ra các nguyên nhân gây stress trong đời sống chúng ta, nhận ra stress tác động đến chúng ta như thế nào và hành động để giảm bớt các nguồn gây stress, giữ stress ở mức độ chấp nhận được, hoặc học cách thư giãn để giữ sự căng thẳng không hại đến sức khỏe.
b. Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO)
Theo UNESCO thì kỹ năng phải được phân chia dựa trên những kỹ năng cơ bản cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Theo đó, có thể có những nhóm kỹ năng sống như sau:
1- Nhóm kỹ năng chung
Nhóm chung này bao gồm những kỹ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều có thể có để thích ứng với cuộc sống chung bao gồm các kỹ năng nhận thức, kỹ năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
2- Nhóm kỹ năng chuyên biệt
Nhóm kỹ năng chuyên biệt gồm các kỹ năng được thể hiện trong các lĩnh vực cụ thể khác nhau của đời sống xã hội như: Các kỹ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, kỹ năng liên quan đến giới và giới tính, kỹ năng về các vấn đề xã hội như ma túy, HIV- AIDS, các kỹ năng liên quan đến môi trường thiên nhiên, các vấn đề bạo lực, rủi ro, những kỹ năng liên quan đến cuộc sống gia đình, môi trường cộng đồng, hòa bình và giải quyết xung đột, phòng tránh buôn bán trẻ em và phụ nữ.
c. Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
Tổ chức này nghiên cứu sâu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn tại và phát triển của cá nhân. Theo đó, các kỹ năng phân loại theo các mối quan hệ như sau:
1 - Nhóm những kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình, bao gồm các kỹ năng sau:
- Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân