2
chuẩn mực riêng, cơ chế tài chính đối với hoạt động thu, chi tại bệnh viện ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Tuy nhiên, các hoạt động thu chi ngày càng phức tạp, cơ chế tự chủ được giao ngày càng cao, vì vậy, kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại bệnh viện Tuệ Tĩnh còn tồn tại nhiều bất cập, như: nhà quản lý chưa quan tâm thường xuyên tới rủi ro; cơ cấu tổ chức còn nhiều điểm chưa hợp lý; trình độ quản lý và chất lượng nguồn nhân lực thấp; hoạt động giám sát định kǶ chưa được chú trọng;…những tồn tại này sẽ có ảnh hưởng đến định hướng kinh doanh và quản lý, đến chất lượng công việc của bệnh viện. Do đó, vấn đề đặt ra cho bệnh viện Tuệ Tĩnh là làm sao có thể xây dựng và vận hành KSNB hoạt động thu chi thật sự hiệu quả, giúp bệnh viện có thể kiểm soát tốt rủi ro hoạt động thu chi, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và tăng khả năng cạnh tranh, phát triển theo định hướng chiến lược hướng tới sự phát triển bền vững. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.
2. Tổng quan nghiên cứu có liên quan
Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài kiểm soát nội bộ trong các bệnh viện công hiện nay. Ở mỗi thời điểm, không gian khác nhau thì các công trình, đề tài nghiên cứu có những cách tiếp cận, đánh giá khác nhau. Cụ thể, một số công trình tiêu biểu như sau:
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Mai Lương Thúy QuǶnh (2019), với đề tài “Kiểm soát nội bộ tại Bệnh viện Bạch Mai”, luận văn đã xây dựng được thang đo, kiểm định sự phù hợp cǜng như độ tin cậy của quy trình kiểm sát nội bộ, xác định được kiểm soát nội bộ hoạt động thu viện phí có ảnh hưởng như thế nào đến bệnh viện. Từ đó giúp Ban Lãnh đạo bệnh viện có những chính sách phù hợp để hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của mình.
- Đề tài “Hoàn thiện kiểm soát nội bộ thu chi tại Bệnh viện Sốt rét - Ký sinh trùng – Côn trùng Quy Nhơn” (2016) của tác giả Phạm Thị Trà, đã tổng hợp lý luận, khảo sát và nghiên cứu, phân tích thực trạng kiểm soát nội bộ các khoản thu, chi nhằm phát hiện ra các tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động thu, chi tại bệnh viện.
3
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh - 1
- Sự Cần Thiết Và Lợi Ích Của Việc Xây Dựng Kiểm Soát Nội Bộ Trong Đơn Vị
- Kiểm Soát Nội Bộ Hoạt Động Thu, Chi Trong Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập
- Nội Dung Các Khoản Thu, Chi Từ Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh, Dịch Vụ
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
- Nghiên cứu của Mila Riyanti and Zaenal Fanani (2017) về đề tài “Hệ thống kiểm soát nội bộ chính thức và không chính thức tại các bệnh viện ở Indonesia”, được phân tích từ hệ thống luật pháp của chính phủ Indonesia và Khung tích hợp kiểm soát nội bộ INTOSAI 2013 đã phân tích trên năm yếu tố môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông và giám sát nội bộ.
Qua việc nghiên cứu tổng quan các công trình trên, tác giả nhận thấy vai trò quan trọng của kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi trong các hoạt động của đơn vị. Các nghiên cứu này sẽ giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về vận dụng lý thuyết về kiểm soát nội bộ trong việc nghiên cứu, đánh giá và hoàn thiện hoạt động thu chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Trên quan điểm kế thừa và tiếp tục phát triển các công trình nghiên cứu trước đây, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh”. Từ đó đưa ra các giải pháp hữu ích nhằm nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi của Bệnh viện Tuệ Tĩnh nhằm đưa ra một số giải pháp kiểm soát nội bộ cho hoạt động trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, hệ thống hóa các lý luận cơ bản về kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi trong đơn vị sự nghiệp công lập nhằm định hướng cho nội dung kiểm soát nội bộ phù hợp với quy trình của Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
- Tiến hành khảo sát thực tế, tổng hợp phân tích, đánh giá thực tế thực trạng kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh nhằm tìm ra những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân, để làm cơ sở đề ra các giải pháp hoàn thiện.
- Trên cơ sở lý luận thực tiễn, đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm soát nội bộ thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về không gian: Thực hiện tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng 3 năm từ 2017 đến 2019
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi theo 5 yếu tố cấu thành theo INTOSAI 2013: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Đề tài sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra, đồng thời sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh... để nghiên cứu hệ thống hóa, tổng kết các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng và tính lịch sử cụ thể.
5.2. Phương pháp cụ thể
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Đối với các tài liệu thứ cấp: các tài liệu thứ cấp như các Thông tư, Nghị định của Chính phủ, hệ thống quy trình quy chế quy định nội bộ của Bệnh viện Tuệ Tĩnh, các kết quả kiểm tra, giám sát của các đoàn kiểm tra trong và ngoài Bệnh viện Tuệ Tĩnh, các báo cáo phân tích, tổng hợp của Bệnh viện Tuệ Tĩnh và báo cáo giám sát định kǶ, các công trình nghiên cứu, các bài báo, các website... vì vậy đảm bảo độ tin cậy cao.
Phương pháp xử lý, phân tích thông tin, dữ liệu
Luận văn sử phần mềm Excel thống kê để tổng hợp thông tin, dữ liệu và thống kê các chỉ tiêu cần thiết. Trong phân tích diễn giải, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu.
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Về lý luận: Hệ thống hóa về mặt lý luận kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi trong các bệnh viện công lập.
- Về thực tiễn: Phân tích thực trạng kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh để tìm ra những tồn tại cần khắc phục. Đề xuất các giải pháp
5
hoàn thiện kiểm soát nội bộ hoạt động thu, chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Chương 2: Thực trạng kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kiểm soát nội bộ hoạt động thu chi tại Bệnh
viện Tuệ Tĩnh
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG THU CHI
TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1.1. Khái niệm về đơn vị sự nghiệp công lập
Theo Điều 1, Điểm 2 Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thì “Đơn vị SNCL do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công phục vụ quản lý nhà nước” [11].
Theo chuẩn mực kế toán công quốc tế IPSAS số 6 và IPSAS số 22: Các đơn vị cung cấp dịch vụ công và các cơ quan quản lý nhà nước bị kiểm soát bởi một đơn vị công được gọi chung là các đơn vị bị kiểm soát, ngoại trừ các đơn vị kinh doanh bằng vốn nhà nước, tất cả các đơn vị bị kiểm soát còn lại được gọi là các đơn vị thuộc lĩnh vực công hoạt động dựa vào nguồn tài trợ của Chính phủ để duy trì cho hoạt động của các đơn vị được diễn ra liên tục. Nguồn tài trợ từ Chính phủ đối với các đơn vị công có thể là nguồn ngân sách hoặc phi ngân sách. Như vậy, quan điểm này nhấn mạnh đơn vị công bao gồm cả cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp là các đơn vị được thành lập và được kiểm soát bởi Chính phủ. Theo tôi đây là khái niệm mang tính bao quát và tổng hợp hơn và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay [12].
Đơn vị SNCL là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước.
Theo qui định của Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp (HCSN) hiện hành: Đơn vị HCSN do Nhà nước quyết định thành lập nhằm thực hiện một nhiệm vụ chuyên môn nhất định hay quản lý Nhà nước về một lĩnh vực nào đó, hoạt động bằng nguồn kinh phí Ngân sách nhà nước (NSNN) cấp, cấp trên cấp toàn bộ hoặc cấp một phần kinh phí và các nguồn khác đảm bảo theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho từng giai đoạn.
7
Theo Giáo trình Kế toán Công của ĐH Công Đoàn (2020): đơn vị SNCL là những đơn vị do Nhà nước thành lập hoạt động công lập thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực: Y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm [14].
1.1.1.2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
Kế thừa các nghiên cứu đã có, Tác giả cǜng nhận định các đơn vị SNCL là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động do NSNN cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách. Các hoạt động này chủ yếu được tổ chức để phục vụ xã hội, do đó chi phí chi ra không được bồi hoàn trực tiếp bằng lợi ích kinh tế mà được thể hiện bằng hiệu quả xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, phương thức hoạt động của các đơn vị SNCL là rất đa dạng, nhưng dù hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau chúng đều mang những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, mục đích hoạt động của các đơn vị SNCL là không vì lợi nhuận, chủ yếu phục vụ lợi ích cộng đồng
Việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra bởi đơn vị SNCL không vì mục đích lợi nhuận như hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự có mặt của nhà nước trong việc tài trợ cho các hoạt động dịch vụ công vừa để thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập, thực thi các chính sách phúc lợi công cộng khi can thiệp vào thị trường; mặt khác qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế xã hội phát triển, nâng cao đời sống, sức khỏe, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Thứ hai, sản phẩm của các đơn vị sự SNCL là sản phẩm mang lại lợi ích chung có tính bền vững; lâu dài cho xã hội
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động SNCL tạo ra chủ yếu là những sản phẩm, dịch vụ có giá trị về sức khỏe, tri thức, văn hóa, đạo đức, xã hội... Đây là những sản phẩm vô hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên
8
phạm vi rộng. Mặt khác, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp công lập chủ yếu là các hàng hóa công cộng phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình tái sản xuất xã hội. Hàng hoá công cộng có hai đặc tính cơ bản là không có tính cạnh tranh và không loại trừ. Nhờ việc sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp công lập tạo ra làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao. Vì vậy, hoạt động sự nghiệp công luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất xã hội.
Thứ ba, hoạt động của các đơn vị SNCL luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
Với chức năng của mình, Chính phủ luôn tổ chức, duy trì và đảm bảo hoạt động sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định, Chính phủ tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, chương trình xóa mù chữ... Những chương trình này chỉ có Nhà nước, với vai trò của mình mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả, nếu để tư nhân thực hiện, mục tiêu lợi nhuận sẽ lấn chiếm mục tiêu xã hội và dẫn đến hạn chế việc tiêu dùng sản phẩm hoạt động sự nghiệp, từ đó kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, việc quản lý hoạt động của các đơn vị SNCL gắn với việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính được tiến hành theo hai phương thức: quản lý đầu vào, và quản lý đầu ra
Rò ràng vì mục đích hoạt động của các đơn vị này là cung cấp dịch vụ công cho mọi đối tượng thụ hưởng trong xã hội với mức giá tối thiểu và ổn định, bởi vậy để đảm bảo công bằng cho mọi đối tượng thụ hưởng dịch vụ thông thường ngân sách quốc gia tài trợ cho các đơn vị. Chi phí cho dịch vụ công thường được tính dựa trên số chi ngân sách bình quân đầu người. Nếu kinh phí tài trợ cho hoạt động cung cấp dịch vụ công phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước, nhà nước thường áp dụng quản lý hoạt động của đơn vị theo phân cấp kinh phí đầu vào của đơn vị đó vì điều này đồng nghĩ với việc kiểm soát một bộ phận của chi ngân sách. Khi xã hội phát triển, dịch vụ công dành cho mọi đối tượng người dân được nâng giá trị, cùng tiến trình xã hội hóa dịch vụ công, ảnh hưởng của khu vực tư nhân vào quá trình
9
cung dịch vụ công, xuất hiện các nguồn tài trợ khác ngoài ngân sách nhà nước, nhu cầu quản lý hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ được đặt ra đối với các nhà đầu tư, phát sinh xu thế cạnh tranh tương tự khu vực dịch vụ tư nhân dẫn đến cách quản lý hoạt động các đơn vị SNCL sẽ theo đầu ra.
1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Tùy thuộc quan điểm, cách tiếp cận hoặc do các yêu cầu của quản lý nhà nước...mà các đơn vị SNCL được phân chia theo các tiêu thức khác nhau. Các cách phân loại tuy khác nhau đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các đơn vị SNCL trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá đưa ra các định hướng, mục tiêu phát triển của mỗi loại hình đơn vị phù hợp với từng thời kǶ.
Theo phân cấp quản lý ngân sách
Theo Quyết định số 90/2007 QĐ-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành "Quy định về mã số các đơn vị có quan hệ với ngân sách" thì đơn vị dự toán, đơn vị sử dụng NSNN:
- Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc Ủy ban nhân dân giao, thực hiện phân bổ, giao dự toán ngân sách cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc.
- Đơn vị dự toán cấp II là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, được đơn vị dự toán cấp I giao dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị dự toán cấp III (trường hợp được ủy quyền của đơn vị dự toán cấp I).
- Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách (đơn vị sử dụng NSNN), được đơn vị dự toán cấp I hoặc cấp II giao dự toán ngân sách.
- Đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để thực hiện phần công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện công tác kế toán và quyết toán theo quy định (đơn vị sử dụng NSNN).
Theo lĩnh vực hoạt động thì đơn vị SNCL được chia thành
Căn cứ theo lĩnh vực, ngành nghề hoạt động thì đơn vị SNCL được chia thành:
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, loại đơn vị này bao gồm: Các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề, Trường trung học chuyên nghiệp, Trường cao đẳng, Trường đại học, Học viện…