đức và phản khoa học của Kinh Thánh. Thí dụ như việc cấm phá thai ngay cả trong trường hợp bị hãm hiếp hay thai tật trầm trọng, cấm sử dụng bao cao-su mặc dù có thể giúp ngăn ngừa bệnh AIDS và ngừa thai trong các xứ nghèo (cho đến 2010 Benedict XVI mới chịu gia giảm về vấn đề nầy), kết án đồng tính luyến ái là dơ bẩn và tội lỗi, cấm cản các công trình nghiên cứu tế bào gốc (stem cell), cổ động việc đem tư tưởng Sáng Tạo (Creationism) vào học đường để giảng dạy ngang hàng với khoa học tự nhiên, v.v. và v.v.
Nếu những giáo điều vừa kể trên vẫn có cơ hội gây ảnh hưởng nặng nề đến an sinh hàng ngày, thì tại sao chúng ta không nên lo ngại về hạt cỏ độc “hãy tiêu diệt kẻ ngoại đạo để tôn vinh Thượng Đế”?
Trong bất cứ đoàn thể và thời điểm nào cũng có những kẻ quá khích. Tôn giáo nào cũng có những kẻ cuồng tín hoặc những kẻ lợi dụng sự cuồng tín của người khác để thi hành những điều ác độc. Thí dụ như đã nói hiển nhiên ràng ràng trước mắt hiện nay là phong trào khủng bố tràn lan của bọn cuồng tín Hồi Giáo. Lịch sử Kito Giáo cũng đã (và chắc chắn sẽ) có đầy những kẻ cuồng tín tương tự. Lịch sử đã nhiều lần cho thấy những kẻ cực đoan nắm chính quyền. Vì những điều răn tàn ác, vô đạo đức trong Kinh Thánh vẫn chưa hề bị xóa bỏ hay sửa đổi nên thỉnh thoảng chúng vẫn còn có thể được áp dụng lên những ý tưởng và hành động điên rồ của họ. Làm sao ai có thể dám nói rằng những tội ác trên sẽ không xảy ra nữa trong tương lai?
Và đây là một điều đáng thấy, đáng nhớ và đáng lo ngại.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ hay sửa đổi các điều răn trên trong Kinh Thánh là một điều vô cùng khó khăn. Chỉ trên lãnh vực tín ngưỡng thuần túy mà thôi, Tòa Thánh có sẽ không bao giờ cho phép điều đó xảy ra (ngay cả nếu họ cũng nhận thấy mối lo ngại trên). Đó là vì Kinh Thánh là lời truyền dạy bất di bất dịch từ Thượng Đế tối thượng và là nền tảng tôn giáo của họ. Tuy trong lịch sử Kinh Thánh đã từng nhiều lần được sửa đổi, bất cứ sự sửa đổi nào nữa xảy ra ngày nay sẽ làm lung lay thêm niềm tín ngưỡng đang có phần đi xuống của Thiên Chúa Giáo (dễ thấy nhất ở trong nhiều quốc gia Âu Châu).
Như đã nói ở trên, chủ trương và chính sách của Tòa Thánh ngày nay là, nếu có thể, cố gắng càng tránh truyền bá hay đề cập đến những tín điều nầy càng tốt. Và các trường phái “Bào Chữa” của Thiên Chúa Giáo (“Christian Apologetics”) thường xuyên sử dụng một số lập luận tiêu biểu của họ trong việc chống đỡ và bào chữa những thiếu sót của Kinh Thánh.
Những hạt cỏ độc trên có lẽ sẽ còn nằm lẫn trong ngôi vườn chúng ta một thời gian rất lâu. Trách nhiệm và bổn phận của chúng ta là phải tiếp tục ghi nhận và nhắc
nhở nhau về sự hiện diện của chúng. Thỉnh thoảng chúng sẽ đâm chồi trổi dậy khi có điều kiện. Chúng ta cần phải tiếp tục cảnh báo mọi người chung quanh chúng ta, nhất là các tín đồ lẫn giới lãnh đạo Thiên Chúa Giáo về vấn đề nầy. Chúng ta cần phải chủ tâm nhổ bỏ chúng càng sớm và càng thấu đáo càng tốt. Chế độ dân chủ cùng với quyền tự do ngôn luận cho phép chúng ta làm điều này bằng nhiều phương cách ôn hòa và hợp pháp.
Như một người làm vườn có lương tâm, chúng ta cần phải bảo vệ và cải tiến cái xã hội mà chúng ta cũng như gia đình chúng ta đang sinh sống. Chúng ta chỉ phải chấp nhận rằng đây là một công việc thường xuyên, dài hạn và lắm khi đầy phiền nhiễu.
Vấn đề đáng quan tâm là những quy định riêng đối với tín đồ nữ đạo Hồi. Họ dù không muốn cũng phải tuân thủ mà lý do chỉ có thể giải thích được là vì họ là phụ nữ. Những quy định đó mang tính hà khắc và thể hiện địa vị thấp kém của phụ nữ Hồi giáo so với nam giới. Sau đây là một số quy định chủ yếu
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn Đề Quyền Tự Do Bình Đẳng, Không Bị Phân Biệt Đối Xử.
- Quyền Tự Do Dân Chủ Tín Ngưỡng Tôn Giáo
- Tác Động Tích Cực Trong Các Quan Điểm Tôn Giáo Về Quyền Con Người
- Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người - 10
Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.
Trước hết phải kể đến quy định riêng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: Tuổi lấy chồng của con gái đạo Hồi trung bình từ 12 đến 15 tuổi. So với quy định của pháp luật ở hầu hết các quốc gia khác thì tuổi lấy chồng của con gái đạo Hồi là quá trẻ. Theo luật pháp của hầu hết các quốc gia, đây là tuổi vị thành niên, là tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”. Với lứa tuổi đó người phụ nữ chưa phát triển đầy đủ về cả mặt sinh học lẫn nhận thức đã phải làm vợ, làm mẹ. Vì thế, phần lớn trong số họ khi còn trẻ đều vướng víu vào công việc gia đình nên không có điều kiện học hành. Với quan niệm của các bậc cha mẹ trong các gia đình đạo Hồi con gái chỉ cần học chữ đủ để đọc thánh kinh, do đó hầu hết phụ nữ đều không được đi học nên có trình độ học vấn rất thấp. Trong khi đó, đàn ông có rất nhiều quyền so với phụ nữ.
Một người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ nhưng một người đàn bà chỉ được lấy một chồng. Quy định tội phạm trong quan hệ với người khác giới, đàn ông không có tội khi ngoại tình, tội ngoại tình chỉ áp dụng cho phụ nữ. Khi mắc tội ngoại tình, người phụ nữ có tội sẽ phải chịu hình phạt là bị ném đá đến chết. Kinh Qu’ran coi thiên đàng là khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời. Còn ở thế gian, lúc người đàn ông còn sống thì đàn bà là cánh đồng lạc thú mà mọi người đàn ông đều được vào nếu muốn. Như vậy, phụ nữ đạo Hồi chỉ được coi là thứ công cụ để duy trì giống nòi và để thoả mãn dục tính của đàn ông.
Trong quan hệ vợ chồng, khi cuộc sống gia đình không “thuận chèo mát mái”, đàn ông muốn li dị vợ lúc nào cũng được, thậm chí họ còn được quyền giữ lại con cái. Chồng có quyền đánh vợ. Uy quyền của đàn ông đối với đàn bà được giải thích trong Kinh là: đàn ông có quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra đàn ông cao quí
hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của mình ra để nuôi đàn bà. Một người đàn bà được coi là tốt phải là người biết vâng lời đàn ông vì đàn ông săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho nằm chung phòng và có quyền đánh đập.
Về quyền được hưởng thừa kế gia sản của bố mẹ: con gái chỉ được hưởng phần gia tài bằng một nửa phần gia tài được thừa kế so với phần của con trai.
Về quyền tham gia các hoạt động xã hội:
Với tư cách là một tín đồ Hồi giáo, khi đến giáo đường làm lễ vào ngày thứ sáu hàng tuần, phụ nữ có thể không được vào hoặc muốn vào phải đi cửa riêng, không được đi chung cửa với nam giới.
Khi phụ nữ làm nhân chứng ở toà án, thì lời chứng của đàn bà chỉ có giá trị bằng một nửa lời chứng của đàn ông. Khi nạn nhân bị giết là nữ giới, trường hợp nếu được bồi thường, thân nhân của họ chỉ được bồi thường giá trị bằng một nửa so với nạn nhân là nam giới.
Về trang phục: Kinh Qu’ran quy định chế độ y phục của phụ nữ rất khắt khe, phụ nữ phải mặc che kín hoàn toàn, không được để lộ thân thể bất kể phần nào (kể cả mặt và tay) ra trước bất cứ người đàn ông nào ngoài chồng mình. Do quy định đó tại các nơi công cộng người ta rất dễ nhận ra các phụ nữ đạo Hồi trong trang phục giống nhau là: áo choàng rộng chùm kín từ đầu đến gót chân với mạng che mặt. Trang phục này có nhiều nếp gấp, nặng nề, gây nhiều khó chịu cho người mặc trong mùa hè.
Nếu so sánh những quy định tương tự đối với phụ nữ đạo Hồi ở một số nước khác ngoài khu vực, phụ nữ đạo Hồi ở các quốc gia Đông Nam Á xem ra vẫn còn được may mắn hơn bởi họ không phải chịu những quy định khắt khe như được kể dưới đây.
Chẳng hạn, để duy trì đạo luật về mặc, có quốc gia đã công khai (hoặc ngấm ngầm) thực thi một loại chế tài man rợ kiểu thời Trung cổ là tạt a-xít vào mặt những phụ nữ không che mạng. Chế độ Taliban còn có đội quân gọi là cảnh sát đạo đức hay Bộ cải tiến đạo đức để duy trì luật về y phục phụ nữ bằng việc dùng gậy hoặc roi quấn dây cáp đánh những phụ nữ tại bất cứ đâu nếu họ sử dụng y phục không đúng quy định
Ở Iran, quyền của phụ nữ đạo Hồi trong chuyện li dị không hề được đếm xỉa. Đàn ông muốn được li dị vợ lúc nào cũng được, chỉ với thủ tục là lặp lại câu nói “tôi li dị cô” ba lần.
Về quyền nhân thân của phụ nữ đạo Hồi của các nước Đông Nam Á cũng được coi trọng hơn ở Arập Xêut. Tại Arập Xêut, phụ nữ không ai có căn cước khi
chưa chồng, khi độc thân lí lịch vắn tắt của họ được ghi vào căn cước của cha. Khi cha của cô gái nào đó chết, phần lí lịch đó được ghi vào thẻ căn cước của anh hoặc của em trai. Nếu đã kết hôn, lý lịch đó của phụ nữ được ghi vào căn cước của chồng. Khi chồng chết thì ghi vào căn cước của con trai. Quyền của phụ nữ trong hoạt động kinh tế còn bị thu hẹp đến mức khó tin. Phụ nữ bị cấm không được làm một số nghề mà vốn chị em ở nhiều nước đó tham gia rất phổ biến như lái xe, luật sư, kỹ sư và bị cấm làm công chức trong các công sở nhà nước.
Thực tế trên cho chúng ta thấy rằng về một khía cạnh nào đó phụ nữ tín đồ Hồi giáo ở Đông Nam Á còn có những may mắn hơn, quyền nhân thân cũng có phần được coi trọng hơn. Tất nhiên nếu chỉ xét theo quy định của thánh kinh. Các mặt của đời sống xã hội trong đó có đời sốngcủa những người phụ nữ ngoài thánh kinh còn được điều chỉnh bởi những quy định của pháp luật và những yếu tố khác.
Thực tế cho thấy, những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng là những vấn đề gắn với truyền thống và lịch sử. Những quy định của đạo giáo dù bình thường hay khắc nghiệt vốn đã ăn sâu, bám rễ hàng ngàn năm nên việc thay đổi chúng không thể dễ dàng thực hiện trong một sớm, một chiều và bằng những biện pháp riêng rẽ, đơn lẻ.
Ngoài ra, vấn đề bình đẳng giới hay thực chất là mở rộng quyền năng cho phụ nữ, đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội không thể không ảnh hưởng tới phần còn lại của cộng đồng quốc tế là nam giới. Sự nghiệp đó ít, nhiều làm giảm cái “oai”, cái “uy”, cái gọi là quyền hành của nam giới đối với nữ giới. Một số người đó coi thậm chí không thích đề cập vỡ cảm thấy lợi ích của mình dường như bị thu nhỏ lại. Vì vậy vấn đề bình đẳng giới được thực hiện trong thực tế phải do chính những người phụ nữ tiến hành. Phụ nữ phải cùng nhau giành, giữ và còn phải được giới mày râu thừa nhận và tự giác cùng thực hiện, thêm nữa cũn phải được tổ chức thực hiện đồng thời ở nhiều quốc gia và phải được liên tục duy trỡ trong thời gian dài.
Một chủ trương chung cần tính đến là phải có biện pháp cụ thể trong việc khai thác nguồn nhân lực nữ ở các quốc gia đạo Hồi. Phụ nữ là một nửa nguồn nhân lực cho mọi quá trình phát triển của nhân loại. Huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực này là một việc làm không thể không tính đến ở tất cả các quốc gia và các khu vực trên thế giới. Thêm nữa việc khai thác nguồn nhân lực nữ ở tất cả các nước (kể cả các nước ASEAN) không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, lịch sử, trạng thái kinh tế- xã hội…, trong đó có cả ảnh hưởng về truyền thống đao Hồi và quan hệ quốc tế của mỗi quốc gia trong các giai đoạn, các thời kỳ. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu:
Trước hết cần khai thác nét văn hóa đạo Hồi trong phát triển kinh tế ở các quốc gia. Phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập khu vực trên cơ sở khai thác những yếu tố văn hoá lịch sử chung, riêng của các quốc gia
Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, những yếu tố văn hoá, tín ngưỡng và sắc tộc càng có điều kiện để thể hiện rõ tính đa dạng, phong phú. Đồng nhất trong đa dạng đó là xu hướng và là giải pháp cơ bản, lâu dài trong hội nhập quốc tế nói chung và trong phát triển cộng đồng ASEAN nói riêng. Thực hiện bình đẳng giới ở các quốc gia đạo Hồi được coi như một động lực để khai thác nguồn nhân lực cho phát triển không nằm ngoài giải pháp chung này. Thực tế ở một số nước, trong một số hoạt động kinh doanh người ta cũng đã nói đến những nét văn hoá, những yếu tố đạo Hồi.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ cho chính những người phụ nữ. Luật đạo Hồi hạn chế nhiều quyền và bất công với phụ nữ. Với lịch sử 14 thế kỷ chắc chắn những qui định về thân phận người phụ nữ đã ăn sâu vào nếp sống các tín đồ, thành yếu tố tâm lý, thói quen truyền thống không dễ phai nhạt. Từ đây chúng ta thấy sự nghiệp bình đẳng giới của phụ nữ đạo Hồi không chỉ bị lực cản bởi tính chất “bất khả xâm phạm”, không ai có quyền sửa đổi của những qui định đó mà còn bởi quan niệm của chính những người phụ nữ về thân phận bất di bất dịch và nhẫn nhục trở thành bổn phận tự nhiên của họ. Thành công trong cuộc đấu tranh giành và giữ quyền bỡnh đẳng giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng phải xuất phát từ chính nhận thức và nhu cầu của những người phụ nữ ở các nước đạo Hồi.
Để có bình đẳng giới thực sự, sự nghiệp cách mạng của phái đẹp nói chung của phụ nữ đạo Hồi nói riêng chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Từ các kinh nghiệm thất bại cũng như thành công của phụ nữ ở nước khác và cả kinh nghiệm của chớnh mỡnh, họ sẽ rút ra bài học và có thêm niềm tin để quyết tâm đi đến thắng lợi. Sự nhận thức đúng về vị trí, vai trò của chính mỗi người phụ nữ, sự đoàn kết của chị em trong cuộc đấu tranh để đi đến thắng lợi là một trong những giải pháp cơ bản, đầu tiên phải tính đến.
Thứ ba, tăng cường giao lưu giữa Hội phụ nữ các nước: Tạo cơ hội cho phụ nữ các nước trong khu vực trao đổi kinh nghiệm trên diễn đàn quốc tế, khu vực trong mọi lĩnh vực.. Tổ chức các diễn đàn vinh danh các tấm gương phụ nữ về kinh doanh giỏi, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, tham gia các hoạt động giúp đỡ nhau giải quyết các khó khăn trong cuộc sống, có nhiều thành tích nghien cứu khoa học… Trong đó cần tính đến đại biểu tham gia là các tín đồ nữ đạo Hồi
Thứ tư, xây dựng và tăng cường ý thức pháp luật của người dân, đưa những quy định của luật pháp vào cuộc sống trên nguyên tắc không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo.
Những hoạt động nói trên sẽ phát huy tác dụng nhiều hơn nếu thông tin về những thay đổi tốt đẹp trong cuộc sống của phụ nữ đạo Hồi các được tuyên truyền một cách sâu rộng và liên tục trong thời gian dài.
Chế độ đẳng cấp trong giáo lý của Ấn độ giáo cũng là một điều đáng lên án. Phân biệt, kỳ thị đẳng cấp là vấn nạn nhức nhối trong xã hội Ấn Độ. Hàng triệu người thuộc giai tầng Dalit (nằm ngoài hệ thống Varna của Hindu giáo) thường xuyên chịu đựng sự hành hạ và thậm chí là bị giết.
KẾT LUẬN
Quan điểm của các tôn giáo về quyền con người chứa đựng trong nhiều giáo điển, được mô tả, phản ánh một cách lồng ghép, đan xen chứ không phân định tách bạch theo các quyền cụ thể như Luật nhân quyền quốc tế ngày nay, cho nên chúng ta nghiên cứu quan điểm của các tôn giáo và thấy rằng, trong tư tưởng tự do có chứa đựng giá trị dân chủ, trong tư tưởng tôn trọng quyền sống có giá trị của quyền không bị tra tấn, trong tư tưởng bình đẳng có giá trị tôn trọng quyền của những người yếu thế, trong tư tưởng về quyền tự do có giá trị của quyền tự do biểu đạt, có giá trị về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng... và sẽ thật khó nhìn nhận nếu chúng ta không coi tư tưởng của các tôn giáo là một lí thuyết sống.
Vượt trên sự so sánh, đối chiếu, lí giải giáo lí của các tôn giáo tương thích với một số quyền con người theo Luật nhân quyền quốc tế ngày nay; chúng tôi nhận thấy điều quan trọng nhất chính là: các tôn giáo có tư tưởng và nguyên tắc. Chính tư tưởng của các tôn giáo tương thích với tư tưởng quyền con người hiện nay, đó là đều xuất phát và hướng đến “nhân phẩm” với con người là trung tâm, lấy con người làm quan trọng, chính nguyên tắc của các tôn giáo phản ánh sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Tư tưởng của các tôn giáo, ấy chính là sự nhận thức cao về luân lí, đạo đức là cơ sở để phổ quát quyền con người, để xây dựng một nền văn hóa nhân quyền, để thiết lập một xã hội tôn trọng và đảm bảo quyền con người.
Do đó, phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo đối với thế giới, nơi mà tín ngưỡng tôn giáo hiện diện ở kháp nơi là điều nên được khai thác, có khả năng hiện thực hóa, để thúc đẩy và nâng cao nhận thức về giá trị quyền con người trong quá trình xây dựng nền văn hóa nhân quyền.
Là một trong những thành tố tạo nên văn hóa dân tộc trong suốt hàng ngàn năm, các tôn giáo trên thế giới ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực góp phần xây dựng đạo đức lối sống cho toàn nhân loại. Tính hướng thiện trong quan điểm của các tôn giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, một cơ sở quan trọng cho việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người trong lịch sử; tư tưởng bình đẳng, hòa bình của các tôn giáo phù hợp với sự hội nhập hóa của toàn nhân loại. Những giá trị tích cực trong quan điểm của các tôn giáo gắn với những hành động cụ thể trong đời sống xã hội, như người đói được cung cấp thực phẩm, người rách được mặc ấm, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc, chữa trị...Tư tưởng quan điểm của các tôn giáo còn luôn coi trọng sự cân bằng giữa con người với tự nhiên, với thiên nhiên và môi trường sống xung quanh con người, khuyến khích con người xây dựng cuộc sống gần gũi với thiên nhiên và cảnh vật. Bởi vậy, tôn giáo không chỉ góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống mà còn có tác dụng gìn giữ
môi trường tự nhiên cân bằng sinh thái, khi ấy đương nhiên là quyền được sống trong môi trường trong lành của con người sẽ được đảm bảo. Những nhân tố đó được phát huy sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn nhân loại trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Điều này càng có ý nghĩa thúc đẩy hơn nữa công tác giáo dục tôn giáo, một việc cần thiết nên làm thường xuyên, có hệ thống và rộng khắp đối với nhiều đối tượng trong xã hội. Tư tưởng của các tôn giáo gắn liền với các giá trị văn hóa sẽ thấy gần gũi các giá trị quyền con người trong việc nhìn thấy sự tương đồng giữa tư tưởng cua tôn giáo mình với tư tưởng quyền con người; do vậy việc giáo dục nâng cao hiểu biết về quyền con người nói chung, trong tiếp nhận các quyền cơ bản của con người trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm, thì giáo dục đi từ những giá trị truyền thống sẽ đi vào lòng người hơn, tránh được rào cản tâm lí cố hữu là không thích tiếp nhận theo kiểu sao chép hay áp đặt theo các tiêu chuẩn, mô thức bên ngoài.
Với ý nghĩa đối với ngành luật, thì đó chính là sự nâng cao nhận thức về quyền con người và tôn trọng, bảo vệ quyền con người.Tôn trọng và đảm bảo quyền con người, cũng như sự công bằng, dân chủ và tự do là những ước vọng muôn đời của con người. Những điều này được đặt trên nền tảng của đạo đức, nếu thiếu đạo đức thì công bằng xã hội mang tính lí thuyết nhiều hơn là hiện thực. Thực tiễn ngành Luật nhân quyền quốc tế cho thấy rằng, trong sự phát triển của chính nó, những cách thức bảo vệ quyền con người trên thế giới ngày càng phát triển theo xu hướng hạn chế phương pháp bạo lực và áp đặt; đồng thời phổ biến hơn sự khích lệ và hỗ trợ việc nâng cao hiểu biết của các bên, nâng cao nhận thức và đạo đức của con người. Đó là cách tiếp cận và giải quyết bền vững, nhân quyền hơn.
Bên cạnh đó cần phải lên án sâu sắc những quan điểm tôn giáo xâm phạm đến quyền con người. Bởi vì, tôn trọng và bảo đảm quyền con người là thước đo của sự tiến bộ xã hội.