LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá diễn ra sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam đã và đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức. Trong bối cảnh, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam ( tháng 7/2000) đã đánh dấu một bước phát triển trong quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam. Với chức năng huy động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp và nền kinh tế thị trường chứng khoán chính là một công cụ tài chính quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian, theo đó trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán là nhà tạo lập thị trường quan trọng trên thị trường chứng khoán, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển và hoạt động hiệu quả.
Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (7/11/2006) thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, theo đó, từ 14 công ty chứng khoán cuối năm 2006, đến nay (tháng 7/2007) theo thống kê của uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã có 60 công ty chứng khoán và khoảng 50 hồ sơ xin cấp phép thành lập công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán Việt Nam đã có những đóng góp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, giúp Nhà nước thực hiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp ( đến nay đã có khoảng hơn 196 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán ), huy động nguồn vốn dài hạn cho các doanh nghiệp sản xuất và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, do thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và bất ổn, các công ty chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là những công ty chứng khoán thành lập sau
cũng gặp phải không ít khó khăn. Để khắc phục những khó khăn thách thức, tạo điều kiện cho công ty chứng khoán, Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để quản lý và thúc đẩy các công ty chứng khoán phát triển lành mạnh, ổn định. Đồng thời, bản thân các công ty chứng khoán cần phải không ngừng hoàn thiện, nỗ lực vượt qua được những khó khăn, thách thức.
Là một sinh viên kinh tế chuyên ngành kinh tế ngoại thương, nhận thức được tầm quan trọng của các công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, em xin chọn viết đề tài : “Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp “ với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về thực trạng hoạt động của các công ty chứng khoán và xin đưa ra một số giải pháp nhằm giúp các công ty chứng khoán hoạt động tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Từ Thuý Anh và các thầy cô trong khoa đã tạo điều kiện và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Do trình độ hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, trong luận văn em tự thấy còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp - 2
- Các Nghiệp Vụ Hoạt Động Chủ Yếu Của Công Ty Chứng Khoán
- Sự Phát Triển Của Các Công Ty Chứng Khoán Tại Việt Nam
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
I. Khái quát về thị trường chứng khoán:
1. Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán:
1.1 Bản chất:
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
TTCK là một định chế tài chính trực tiếp : cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.
TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các chứng khoán mua bán trên TTCK có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau một thời gian nhất định và được lưu thông trên TTCK theo giá cả thị trường, do đó bề ngoài nó được coi là tư bản hàng hóa.
Có thể nói,TTCK là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
1.2 Chức năng:
1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của
công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
1.2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
1.2.3 Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng tạo tính thanh khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
1.2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản xuất.
1.2.5 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác.Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại, giá chứng khoán giảm cho thấy
các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế.Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô. Thông qua TTCK Chính phủ có thể mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối.của nền kinh tế.
2. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán:
2.1 Nhà phát hành:
Nhà phát hành là các chủ thể tham gia huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của TTCK. Có thể là :
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
2.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại : nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư có tổ chức.
Các nhà đầu tư cá nhân : Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lợi nhuận.
Các nhà đầu tư có tổ chức : Cá nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi.
Bên cạnh đó, các CTCK, các NHTM cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình.
2.3 Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán : Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có tể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là:
Bảo lãnh phát hành
.Môi giới
Tự doanh
Quản lý quỹ đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Các ngân hàng thương mại: Tại một số nước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng khoán.Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư chứng khoán trong giới hạnh hất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho phép NHTM thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
2.4 Các tổ chức có liên quan đến TTCK
Cơ quan quản lý Nhà nước
Đầu tiên, thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lội ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định của thị trường chứng khoán, bản thân các nhàkinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý va giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý, giám sát thị trường chứng khoán đã ra đời.
Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của Luật pháp và Uỷ ban chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán (KDCK )
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các CTCK và một số thành viên khác hoạt động trong ngành CK, được thành lập với mục đích bảo vệlợi ích cho các công ty thành viên nói trên và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
Hiệp hội các nhà KDCK thường là một tổ chức tự quản, thực hiện một số chức năng chính như sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh CK.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về CK.
- Điều tra và igải quyết các tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành CK.
- Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tácđộng đến hoạt động kinh doanh CK.
Tổ chức lưu kí và thanh toán bù trừ CK
Là tổ chức nhận lưu giữ các CK và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch CK
Một số tổ chức khác như:
Các công ty dịch vụ máy tính CK
Các tổ chức tài trợ CK
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK
3.1 Nguyên tắc công khai
Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát