Hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam - 13


nhà xưởng, vệ sinh công nghiệp và phải có vùng nguyên liệu ổn định, ít nhất cũng phải đáp ứng 70% năng lực sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để cấp giấy phép kinh doanh. Đối với cơ sở sản xuất chắp vá, không đủ tiêu chuẩn về thiết bị, nhà xưởng, vệ sinh công nghiệp.... dứt khoát phải đình chỉ sản xuất.

Về kế hoạch, cần định hướng mục tiêu phát triển dài hạn (10 năm, 15 năm, 20 năm) để làm căn cứ hoạch định các kế hoạch phát triển 5 năm và hàng năm. Đơn vị đầu ngành sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc lập kế hoạch đó và trực tiếp bảo vệ kế hoạch đó trước Chính phủ. Nhà nước sẽ giao kế hoạch cho địa phương có chè khi đã đạt được 2 điều kiện: một là, những cơ sở thông tin về kế hoạch đã được đảm bảo tương đối chính xác và đã được khảo sát, cân đối từ cơ sở lên, và hai là, đơn vị quản lý ngành đảm bảo mức độ chính xác của những tư liệu đó. Về đại thể, nội dung cơ chế kế hoạch hoá có thể thực hiện trong Quyết định 76 – HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, nhưng cần phải được làm thử và có những quy định thống nhất, đồng bộ để thực hiện trong thực tế.

Thông qua luật để tăng cường quản lý nhập khẩu và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Công bố rộng rãi các danh mục tiêu chuẩn ngành, các loại thuốc trừ sâu được phép sử dụng với dư lượng tới hạn; các loại tiêu chuẩn nhà máy chế biến có quy mô tương ứng và kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng các tiêu chuẩn này trên phạm vi cả nước.

2. Về phía Hiệp hội chè Việt Nam (VITAS)


Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hiệp hội với những nội dung chủ yếu sau:

Một là, kiện toàn Ban chấp hành theo hướng chuyên trách kết hợp với đảm bảo đại diện các thành phần kinh tế, đại diện vùng trọng điểm, coi trọng năng lực và điều kiện thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao.


Hai là, tích cực tuyên truyền, tăng cường kết nạp hội viên mới với tinh thần “thêm một hội viên là thêm sức mạnh”

Ba là, củng cố các ban chuyên môn theo hướng chuyên trách là chủ yếu, ít kiêm nghiệm để có hoạt động thực sự và tích cực.

Bốn là, xây dựng và ban hành quy chế hoạt động, cải tiến lề lối tác phong làm việc, đồng thời đào tạo, nâng cao năng lực công tác hiệp hội và công tác chuyên môn cho các uỷ viên Ban chấp hành, trưởng phó các ban chuyên đề các hội và các bộ cơ quan thường trực Hiệp hội chè Việt Nam, nhằm đáp ứng nhiệm vụ với hiệu quả cao.

Năm là, duy trì và cải tiến chế độ báo cáo các cấp của Hiệp hội và hội viên. Nêu cao ý thức và trách nhiệm hội viên trong hoạt động của Hiệp hội. Khuyến khích các hội viên tài trợ cho các hoạt động chuyên đề, hoạt động thời điểm, vì lợi ích chung của cộng đồng những người làm chè.

Bản thân Hiệp hội cần bám sát lợi ích của doanh nghiệp và của cộng đồng, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp có liên kết liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp trong nước; để làm tăng sự đoàn kết tương hỗ lẫn nhau giữa các thành viên.

Về tổ chức, hiệp hội phải tiến tới xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách, giỏi chuyên môn, dành toàn bộ thời gian và tâm huyết cho hiệp hội giảm thiểu việc quá nhiều cán bộ lãnh đạo hiệp hội kiêm nhiệm vị trí lãnh đạo cơ quan Nhà nước dẫn đến thiên vị, mất bình đẳng giữa các thành viên trong Hiệp hội.

Điều quan trọng nữa là Hiệp hội phải cân đối hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích doanh nghiệp, tránh vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại tới sức khoẻ người tiêu dùng và lâu dài cũng tổn hại đến lợi ích doanh nghiệp;


hiệp hội cùng với chính quyền và các tổ chức khác cần tăng cường công tác giáo dục tuyên truyền với người sản xuất, người tiêu dùng về vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, loại bỏ những chất phụ gia, chất bảo quản bị cấm trong sản phẩm chè, sản phẩm phải ghi đúng nguồn gốc, xuất xứ, hạn sử dụng để bảo đảm sức khỏe nhân dân.

Hiệp hội phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật với tư cách là Tổ chức phi Chính phủ, tránh sự biến tướng trở thành công ty tư vấn dịch vụ, phân chia quyền lợi dẫn đến vi phạm điều lệ và quy chế tổ chức Hiệp hội.

Trong hoạt động, hiệp hội cần chú ý tới điều lệ hiệp hội, chương trình kế hoạch hành động đã được đại hội nhiệm kỳ đề ra, cần quan tâm nhiều hơn đến vai trò, chức năng đóng góp ý kiến, tư vấn cho các cơ quan Đảng và Nhà nước trong quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp trong ngành.

Đối với vấn đề chất lượng sản phẩm, Hiệp hội cần phối hợp với các cơ quan chức năng thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm, tăng năng lực kiểm tra đối với thành viên để giữ uy tín cho sản phẩm chè Việt Nam, nhất là trong thế giới bùng nổ thông tin như hiện nay, chỉ cần 1 lô hàng kém chất lượng gây ngộ độc có thể gây ảnh hưởng dến hoạt động kinh doanh của cả cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Đi đôi với nâng cao và kiểm soát chất lượng cần chú ý tới chiến lược tạo lập, quảng bá “thương hiệu” chè Việt Nam.

3. Về phía Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA)


3.1. Bộ máy tổ chức


Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá IX) đã viết: “DNNN... giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm chủ lực nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Do đó việc tăng cường hiệu quả của DNNN nói chung


và Tổng công ty chè Việt Nam nói riêng không chỉ nhằm mục đích làm cho kinh tế Nhà nước vững mạnh mà còn góp phần tăng tính định hướng XHCN của nền kinh tế. Vì thế, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của nó là vấn đề rất bức xúc hiện nay. Nhưng muốn sự sắp xếp có hiệu quả phải áp dụng nhiều biện pháp, nhưng quan trọng nhất là phải tìm được mô hình tổ chức doanh nghiệp mà với mô hình này chúng ta sẽ tác động trực tiếp vào vấn đề sở hữu, và do đó sẽ làm tăng tính minh bạch của DNNN, của Tổng công ty chè Việt Nam. Mô hình công ty mẹ – Công ty con là mô hình đáp ứng được yêu cầu này, giúp TCT trở thành một tập đoàn kinh tế năng động, hiệu quả và góp phần vào tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta. Khẳng định như vậy vì các lý do:[5]

1. Đây là mô hình ưu việt xuất phát từ các nước TBCN: là một tổ hợp sản xuất kinh doanh đa dạng, đa sở hữu; là một tổ hợp lấy liên doanh góp vốn, hoặc sở hữu chung vốn làm nhân tố quyết định sự liên kết dưới hình thức công ty cổ phần; là một tổ chức kinh doanh bao gồm nhiều doanh nghiệp nhưng có một doanh nghiệp giữ vai trò chi phối, chỉ huy thống nhất - đó là công ty mẹ; là một tổ chức kinh tế năng động: từ tổ chức ban đầu, liên kết có thể mở rộng ra với quy mô đa sở hữu ngày càng lớn, với sự hoạt động đa ngành, đa phương, thậm chí đa quốc gia; là tổ chức kinh tế mang tính xã hội hoá ngày càng cao, thu lợi nhuận ngày càng nhiều, một tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả và tiết kiệm kinh tế cao, một tổ chức phát triển bền vững.

2. Mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép kết hợp các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vào một tổ chức kinh doanh một cách tự nhiên xuất phát từ lợi ích kinh tế, không khiên cưỡng, mang tính hành chính như mô hình trước đây. Trong mô hình này có thể kết hợp DNNN với doanh nghiệp tư nhân, trong đó hoặc DNNN là công ty mẹ còn doanh nghiệp tư nhân là công ty con, hoặc doanh nghiệp tư nhân là công ty mẹ mà DNNN chỉ là


đơn vị góp vốn ở mức độ nào đó cả ở công ty lẫn công ty con. Như vậy, mô hình cho phép mở rộng quy mô sản xuất có thể ở mức rất cao bằng việc huy động nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở lợi ích kinh tế. Nhưng quan trọng hơn, công ty mẹ – công ty con liên kết với nhau bằng cơ chế góp vốn linh hoạt, bằng lợi ích kinh tế trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa công ty mẹ với công ty con và giữa các công ty con với nhau.

3. Sử dụng mô hình công ty mẹ – công ty con là phương thức tốt nhất đảm bảo tính định hướng XHCH của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua ba mặt (một là, tác động trên mặt sở hữu, làm cho sở hữu nhà nước dù chỉ ở mức nhất định vẫn chi phối được nguồn vốn lớn của xã hội, trong đó phần lớn là sở hữu tư nhân, hai là, khắc phục được nhược điểm cố hữu của DNNN là sự khó minh bạch về mặt kinh tế để từ đó góp phần hạn chế sự thất thoát do tham nhũng gắn liền với sự khó minh bạch của DNNN, ba là, tác động vào sự phân chia thu nhập của người lao động tham gia vào hoạt động trong tổ hợp công ty này theo định hướng XHCN).

4. Mô hình công ty mẹ – công ty con sẽ phát huy được tính tự chủ sáng tạo của từng thành viên trong tập đoàn từ công ty mẹ đến các công ty con, hạn chế được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty trong tập đoàn, do đó tạo ra sức mạnh của tập đoàn. Công ty mẹ, một mặt, tự chủ xây dựng chiến lược phát triển của mình và của toàn bộ hệ thống, lựa chọn các hình thức đầu tư, trực tiếp tác nghiệp kinh doanh, mặt khác, đầu tư vốn vào các công ty con và thông qua đó chỉ đạo hoạt động của công ty con qua HĐQT theo định hướng phát triển của công ty mẹ. Các công ty con đều là các công ty có tư cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh theo định hướng chiến lược của công ty mẹ, thu hút vốn từ bên ngoài, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh tế của mình. Như vậy, công ty mẹ và các công ty con đều được tự chủ, sáng tạo trong hoạt động. Tuy công ty mẹ không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty con nhưng


vẫn hỗ trợ các công ty con về thị trường, về công nghệ, về uy tín thương hiệu, về tín dụng, về cán bộ... do đó, tạo nên sức mạnh của cả tập đoàn. Như vậy so với mô hình tổng công ty, mô hình công ty mẹ – công ty con mạnh hơn và hiệu quả hơn.

5. Mô hình công ty mẹ – công ty con, về bản chất, là một tập đoàn kinh tế mà trong đó cốt lõi là sự liên kết của các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế bằng cổ phần hoá. Do đó, việc phát triển công thành công ty mẹ – công ty con xuất phát từ DNNN cùng một lúc giải quyết được hai yêu cầu: đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN và làm tăng được vai trò của DNNN trong việc hỗ trợ, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quá độ lên CNXH.

Tổng công ty Chè Việt Nam chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, chuyển từ hoạt động chủ yếu là tập trung quản lý toàn ngành sang kinh doanh đa dạng, lấy sản phẩm chè là chính, phát triển kinh doanh thêm các mặt hàng khác nhằm phát huy hết các tiềm năng sẵn có của công ty mẹ, lấy việc đầu tư tài chính và quản lý vốn là một trọng tâm trong tổ chức quản lý công ty mẹ. (xem hình 3.2).

Các công ty liên doanh (công ty liên kết)

Các công ty cổ phần (Công ty liên kết)

Các công ty TNHH một thành viên

Các công ty, XN cổ phần

Công ty liên doanh (Công ty con)

Lãnh đạo Công ty mẹ

Hình 3.2: Mô hình Công ty mẹ và Công ty con [40]





Các phòng nghiệp vụ

Các phòng kinh doanh

Văn phòng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam - 13


Các công ty cổ

Viện điều dưỡng

phần thương

phục hồi chức

mại

năng và điều trị

(Công ty con)

bệnh nghề nghiệp


Chuyển cơ chế quản lý hành chính mang tính mệnh lệnh cấp trên, cấp dưới sang quan hệ đầu tư tài chính, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, chủ động trong sản xuất kinh doanh của các công ty con và công ty liên kết, gắn với sự điều hành quản lý tập trung của công ty mẹ tạo ra mối quan hệ chặt chẽ bền vững về tài chính, về công nghệ sản xuất và đặc biệt là về thị trường, nâng cao sức mạnh và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường quốc tế.

Gắn việc chuyển đổi mô hình với việc thay đổi tổ chức, nhân sự để tạo nên xung lực mới cho doanh nghiệp (thí dụ cho phép Hội đồng quản trị thuê giám đốc điều hành giỏi, đại hội cổ đông sẽ đề nghị phía chủ sở hữu nhà nước đề cử những cán bộ quản lý mới cho đại hội lựa chọn...)

3.2. Đổi mới cơ chế hoạt động


Thực hiện nghiêm chỉnh quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ, coi đó là động lực căn bản để chuẩn hoá chất lượng sản phẩm, gắn kết công – nông nghiệp và liên minh chặt chẽ giữa nông dân – nhà máy – nhà khoa học – nhà quản lý các cấp. Mục đích đã được nêu rõ ngay ở điều 1: “Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá đêt phát triển sản xuất ổn định và bền vững”. Hợp đồng sau khi đã ký kết là cơ sở pháp lý để gắn trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo 4 hình thức: ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ; bán vật tư; ký trực tiếp thu mua nông sản; liên kết sản xuất. Đây là giải pháp giúp Tổng công ty chè cũng như toàn ngành chè giải quyết được tình trạng cạnh tranh nguyên liệu cũng như kiểu làm ăn manh mún, riêng rẽ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh chè trên cả nước.


4. Kiến nghị hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam


4.1. Đối với Nhà nước


Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển trồng và sản xuất chè là một chủ trương đúng, nhưng Chính phủ cần ban hành những tiêu chuẩn kỹ thuật của một nhà máy chế biến chè, chế độ và thuốc bảo vệ thực vật cho chè vì đây là hàng thực phẩm đang được các nước nhập khẩu kiểm tra gắt gao về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Nhà nước cần có chính sách và thể chế pháp lý để nâng cao vị trí của Hiệp hội chè Việt Nam, tạo điều kiện để tổ chức này gắn kết lợi ích kinh tế của những người làm chè thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời cũng giàng buộc người làm chè về chất lượng, giá cả mua bán nguyên liệu và xuất khẩu tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hiện nay gây thiệt hại chung cho người làm chè và thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân nói chung.

Đề nghị Nhà nước có những chính sách ưu đãi đặc biệt (tiền lương, phụ cấp khu vức, điều kiện làm việc...) để khuyến khích cán bộ giỏi đến công tác tại các vùng khó khăn (đặc biệt đối với lao động nữ - hiện đang chiếm tới 70% lao động ngành chè).

Đề nghị Nhà nước ban hành các chính sách thuận lợi hơn nữa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất và chế biến chè (đặc biệt là chính sách về đất đai để trồng chè). Thông qua hợp tác đầu tư (kể cả đầu tư 100% vốn nước ngoài) ngành chè Việt Nam sẽ thêm giống mới chất lượng cao, công nghệ cao, công nghệ mới, đồng thời có thêm thị trường đầu ra do các nhà đầu tư đảm nhiệm. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào sản xuất và chế biến chè ở Việt Nam là cơ sở góp phần vào sự phát triển chung toàn ngành chè Việt Nam.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí