hiện trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, căn cứ phát sinh nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng được xác định như sau:
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ riêng đó, nếu nghĩa vụ phát sinh trước khi kết hôn được xác định là nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng;
- Căn cứ vào mục đích của giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện trong thời kỳ hôn nhân: những giao dịch được một bên thực hiện không vì lợi ích, nhu cầu sinh hoặt thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng;
- Nghĩa vụ riêng phát sinh do hành vi trái pháp luật, có lỗi làm phát sinh thiệt hại cho người khác của một bên vợ hoặc chồng;
- Nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của mỗi bên vợ, chồng không thể chuyển giao cho người khác như cấp dưỡng cho con riêng, cấp dưỡng cho vợ, chồng cũ …;
Về nguyên tắc, nợ riêng của ai thì người đó chịu trách nhiệm trả. Theo điều 33 của Luật HN&GĐ thì: “Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”. Trường hợp tài sản riêng của người đó không đủ thanh toán thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng và họ có quyền sử dụng phần tài sản của mình được chia để trả nợ.
Trong vụ án hôn nhân, Tòa án phải giải quyết đồng thời ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ về con chung và quan hệ về tài sản. Xác định đúng các tài sản tranh chấp và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi giải quyết ly hôn sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của mỗi bên đương sự và bảo đảm được quyền lợi của người thứ ba có liên quan.
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỊNH HƯỚNG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cần phải dựa vào các nguyên tắc cụ thể, rõ ràng định hướng cho việc giải quyết được đúng
đắn. Việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc quy định tại Khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ 2000.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - 1
- Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - 2
- Vợ, Chồng Có Quyền Nhập Hoặc Không Nhập Tài Sản Riêng Vào Khối Tài Sản Chung”.
- Ý Nghĩa Của Việc Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn
- Tranh Chấp Giữa Vợ Chồng Về Các Nghĩa Vụ Tài Sản Phát Sinh Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Phương Thức Giải Quyết Đối Với Tài Sản Đang Tranh Chấp
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
1.2.1. Tôn trọng sự thoả thuận hợp lý của vợ chồng
Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 4 BLDS quy định quyền tự do, cam kết thỏa thuận của công dân trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cũng được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận hợp lý của vợ chồng. Khoản 1 Điều 95 Luật HN&GĐ quy định: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên tự thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Đây là nguyên tắc thể hiện rõ nhất quyền tự do cam kết thỏa thuận của công dân, tôn trọng ý chí tự nguyện, tự quyết định của các bên vợ, chồng trên cơ sở thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nếu thỏa thuận giải quyết về tài sản, các bên có thể nêu tâm tư, nguyện vọng của mình và những khó khăn gặp phải sau khi ly hôn. Từ đó, Thẩm phán hòa giải để các bên thống nhất với nhau trong việc phân chia tài sản nhằm đảm bảo cuộc sống của mỗi bên cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của con chung sau khi ly hôn, nhất là các con chưa thành niên, con đã thanh niên bị mất năng lực hành vi dân sự.
Việc thỏa thuận thành công sẽ giảm được thời gian, công sức, tiền bạc của các đương sự, đồng thời tăng tình đoàn kết, thống nhất, không khoét sâu vào mâu thuẫn của đương sự vốn đã căng thẳng, tạo điều kiện cho việc thi hành án được dễ dàng.
Hơn nữa, việc tạo điều kiện cho vợ chồng thỏa thuận giải quyết về tài sản giúp các bên có cơ hội nêu lên tâm tư, nguyện vọng của mình, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mỗi bên khi giải quyết tranh chấp. Nếu các bên không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng của công dân được BLDS thừa nhận, vợ, chồng có quyền bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong việc hưởng các quyền dân sự do pháp luật quy định. Trên cơ sở đó, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng được thực hiện theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Tuy nhiên, nguyên tắc này không phải là bất biến mà được áp dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tế, căn cứ vào hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung.
Căn cứ vào khối tài sản chung của vợ chồng đã được xác định, việc chia tài sản của vợ chồng được giải quyết chia đôi, mỗi người nhận một nửa khối tài sản chung. Tài sản của vợ, chồng tạo ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên có đều nhau hay không. “Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân nên không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng trong việc tạo ra tài sản.
Về nguyên tắc này, mọi tài sản do vợ chồng tạo ra hoặc chỉ do một bên tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng. Vì vậy, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo nguyên tắc chia đôi tài sản chung nhằm đảm bảo được sự bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng.
Tuy nhiên, khi chia tài sản chung của vợ chồng cũng cần xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên như hoàn cảnh kinh tế hay sức khỏe … là điều kiện riêng của vợ hoặc chồng mà các bên có thể gặp phải sau khi ly hôn; cũng có thể xem xét đến công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Từ đó, giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng một cách
hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
1.2.3. Đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong sản xuất, nghề nghiệp
Cùng với sự phát triển của xã hội, việc tạo lập và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng cũng rất đa dạng và phong phú. Tài sản chung của vợ chồng được xác định cụ thể vào thời điểm ly hôn, có thể là các động sản hoặc bất động sản. Pháp luật nước ta cho phép mọi cá nhân có quyền thu nhập hợp pháp trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và những thu nhập khác từ tiền lương, tiền thưởng. Vì vậy, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có quyền sản xuất kinh doanh các ngành nghề phù hợp với khả năng, chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể mở cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc dùng một phần tài sản chung sử dụng vào mục đích kinh doanh với người khác tạo ra thu nhập cho gia đình. Vợ, chồng khi tham gia quan hệ này với người khác có thể nhân danh vợ chồng hoặc nhân danh bản thân mình nhằm đảm bảo cuộc sống chung của vợ, chồng và của gia đình. Vì vậy, tài sản chung của vợ chồng có thể là toàn bộ tài sản dùng để sản xuất kinh doanh hoặc một phần vốn trong các doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế và các tư liệu sản xuất thể hiện dưới dạng vật chất khác của tài sản theo tính chất là động sản hay bất động sản.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi giải quyết ly hôn có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh, hoạt động nghề nghiệp của một bên và ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba cùng tham gia sản xuất, kinh doanh. Pháp luật dự liệu trường hợp này nên đã quy định: “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập”.
Ví dụ: Ông H tham gia góp vốn vào thành lập Công ty TNHH X hoạt
động trong lĩnh vực xây dựng. Vợ chồng ông thống nhất dùng chiếc xe ôtô 4 chỗ trị giá 2 tỷ đồng là tài sản chung của vợ chồng để tham gia góp vốn vào Công ty X. Công ty X dùng chiếc xe này làm phương tiện vận chuyển cho hoạt động đi lại của lãnh đạo công ty.
Trong trường hợp này, ông H đã dùng tài sản chung của vợ chồng để tham gia vào hoạt động kinh doanh, tạo ra thu nhập là tài sản chung của vợ chồng. Khi giải quyết ly hôn, việc chia tài sản chung của vợ chồng được giải quyết trên nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét đến việc đảm bảo lợi ích chính đáng của ông H trong hoạt động sản xuất kinh doanh để ông H có thể tạo ra thu nhập. Vì vậy, nếu vợ chồng không thỏa thuận được vấn đề tài sản, Tòa án sẽ ưu tiên giao chiếc xe ôtô cho ông H sử dụng để ông có điều kiện tiếp tục hoạt động kinh doanh trong Công ty X.
Hay như trường hợp vợ chồng bà B có tài sản chung là một quầy tạp hóa ở chợ. Bà B là người trực tiếp kinh doanh, buôn bán tại quầy tạp hóa này, còn ông N (chồng bà B) có một công việc ổn định khác. Khi giải quyết ly hôn, nếu vợ chồng bà B không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ xem xét hoàn cảnh của mỗi bên cũng như các điều kiện khác trong công việc, Tòa án sẽ quyết định giao tài sản là quầy tạp hóa cho bên có nhu cầu hơn. Trong trường hợp này, bà B là người trực tiếp dùng quầy tạp hóa để kinh doanh, tạo ra thu nhập còn ông N đã có công việc ổn định nên giao tài sản này cho bà B để bà tiếp tục kinh doanh là hợp lý.
1.2.4. Đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động
Xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, người phụ nữ và các con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động là những đối tượng dễ bị xâm hại, dễ bị tổn thương nên pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Người phụ nữ có những hạn chế nhất định về sức khỏe, điều kiện
lao động, học tập … nên họ là những người yếu thế, thiệt thòi nhất trong gia đình cũng như xã hội. Đối với các con chưa thành niên, các con đã thành niên nhưng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động là những người chưa phát triển đầy đủ hoặc có hạn chế về thể chất và tinh thần nên khả năng lao động tạo ra thu nhập bị hạn chế, cần được quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình.
Trong khi đó, đàn ông là người có sức khỏe, có nhiều cơ hội học tập, nâng cao chuyên môn nên họ thường là lao động chính tạo ra thu nhập nuôi sống gia đình. Với những hạn chế về sức khỏe, điều kiện tham gia vào xã hội nên trong thực tế người phụ nữ thường dành nhiều thời gian chăm sóc chồng, con để người chồng có thời gian, điều kiện phục vụ cho công việc. Mặc dù giữa vợ và chồng công sức tạo ra thu nhập có thể không ngang nhau nhưng mỗi người đều có những đóng góp chung để gia đình tồn tại, phát triển. Vì vậy, pháp luật thừa nhận mọi tài sản của vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Lao động của người vợ nội trợ trong gia đình cũng được coi là lao động có thu nhập.
Vì vậy, một khi mâu thuẫn không giải quyết được dẫn đến ly hôn thì người phụ nữ và con cái là những người chịu nhiều thiệt thòi và hậu quả bất lợi của việc ly hôn như thu nhập, điều kiện học tập, cuộc sống thường ngày của con cái ... Người vợ từ chỗ chỉ ở nhà chăm sóc gia đình nay phải bươn chải lao động kiếm sống sẽ gặp nhiều khó khăn; các con khi thay đổi môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến việc học tập, các điều kiện chăm sóc, chữa bệnh ... Đồng thời, cha mẹ có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với con cái trong gia đình xuất phát từ tình cảm và trách nhiệm. Mặc dù quan hệ hôn nhân không còn tồn tại, song quan hệ giữa cha, mẹ và con cái không thay đổi. Do đó, quyền lợi của con cái phải được đảm bảo như khi vợ, chồng chưa ly hôn. Khi giải quyết ly hôn, người con chưa thành niên, bị mất năng lực dân
sự, bị tàn tật, không có khả năng lao động để tự nuôi mình sẽ được giao cho cha hoặc mẹ có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Người vợ hoặc chồng không sống cùng người con đó phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 56 Luật HN&GĐ. Để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho con chưa thành niên, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động để tự nuôi mình thì việc giải quyết về tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ được xem xét tạo điều kiện về chỗ ở, kinh tế cũng như các điều kiện học tập, chữa bệnh, phục hồi chức năng của người vợ và các con.
Nguyên tắc này đã đảm bảo được quyền lợi của người vợ sau khi ly hôn và con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật có điều kiện sống tốt hơn, hạn chế, giảm thiểu bớt khả năng lâm vào hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn vật chất sau khi vợ chồng ly hôn.
1.2.5. Chia tài sản bằng hiện vật hoặc giá trị
Trong đời sống chung giữa vợ chồng, tài sản chung được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng và phong phú, có thể bao gồm các động sản và bất động sản, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Các tài sản này có thể do vợ chồng tạo lập ở khắp mọi nơi trong và ngoài nước, có thể dịch chuyển được hoặc không. Vì vậy, khi phân chia tài sản chung của vợ chồng là các vật (bao gồm các động sản và bất động sản) cho mỗi bên sở hữu, pháp luật cho phép người thực thi pháp luật có quyền phân chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị tùy vào yêu cầu của các bên cũng như các điều kiện thực tế khác. Điểm d khoản 2 điều 95 Luật HN&GĐ quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch”.
Như vậy, nếu tài sản chung của vợ chồng là các động sản hoặc bất động sản có thể chia bằng hiện vật thì Tòa án áp dụng điểm d khoản 2 điều 95 Luật
HN&GĐ để chia theo giá trị hoặc giao hiện vật. Giá trị của tài sản có thể do các bên đương sự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án thành lập Hội đồng định giá để thẩm định giá trị. Các tài sản có thể chia bằng hiện vật cho mỗi bên thì Tòa án căn cứ vào hiện trạng để chia, trường hợp tài sản không thể phân chia được thì giao cho một bên sở hữu, bên còn lại được nhận theo giá trị chênh lệch.
Ví dụ: tài sản chung là một chiếc xe máy thì không thể phân chia bằng hiện vật được mà phải giao cho một bên có nhu cầu sử dụng, bên còn lại được quyền thanh toán giá trị chênh lệch. Trường hợp tài sản cần chia là một mảnh đất, thẩm phán cần xem xét đến nhu cầu sử dụng của mỗi bên cũng như hiện trạng để quyết định có phân chia bằng hiện vật cho cả hai bên vợ, chồng hay không. Nếu mảnh đất có thể phân chia và đủ diện tích để tách thửa theo quy định của pháp luật thì cần chia bằng hiện vật cho cả hai bên.
Điều 95 Luật HN&GĐ 2000 đã quy định các nguyên tắc chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Tình hình thực tế cho thấy đối với các loại tài sản là bất động sản thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì tài sản có giá trị lớn, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Khi tình cảm vợ chồng không còn, giữa họ thường có tranh chấp với nhau gay gắt về tài sản, nhiều vụ việc kéo dài do đương sự khiếu kiện ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của người khác. Luật HN&GĐ 2000 đã quy định các trường hợp chia tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất, các trường hợp mà vợ chồng còn sống chung với gia đình bên cha mẹ chồng, cha mẹ vợ tại các điều từ 96 đến 98 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 70/CP.
Mục 12 Nghị quyết 02/2000/HĐTP đã hướng dẫn: “việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải theo đúng các nguyên tắc được quy định tại điều 95. Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các quy định tại điều 96, điều 97, điều 98 tương ứng”. Vì vậy, áp dụng các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng phải xem xét một cách toàn diện mới đủ cơ sở để giải quyết vụ án.