hoạch là quá trình lập kế hoạch khai thác các tài nguyên, nguồn lực để tạo thành các sản phẩm dịch vụ phù hợp.. Quy hoạch có tính linh hoạt, không mang tính áp đặt mà dựa trên một số nguyên tắc, một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc thị trường. Thị trường quyết định ai sẽ là người tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ được tạo ra, các sản phẩm này sẽ bao gồm những cấu thành gì, được bán với giá bao nhiêu, được thiết kế như thế nào... Do vậy, khi xây dựng quy hoạch chi tiết các khu điểm cho các lĩnh vực dịch vụ cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường tỉ mỉ. Từ đó xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển ngành gắn với quy hoạch kinh tế xã hội của thành phố. Quy hoạch ngành dịch vụ phải đảm bảo phát triển vùng kinh tế trọng điểm Phía Bắc, hướng cho các địa phương, các doanh nghiệp khai thác có kế hoạch các tiềm năng phát triển dịch vụ, điều kiện cơ sở hạ tầng cho phép đến đâu tổ chức khai thác đến đó. Quy hoạch phải dựa trên đặc điểm về tự nhiên và văn hoá từng vùng sinh thái khác nhau và phải có sự nhất trí của các ban ngành cùng người dân địa phương. Có như thế mới phát huy hết thế mạnh từng địa phương đầu tư sẽ hiệu quả hơn (không trùng lắp) và sản phẩm mới đa dạng hấp dẫn. Một quy hoạch phát triển cụ thể, rõ ràng chắc chắn sẽ tạo điều kiện và hướng các nhà đầu tư vào những lĩnh vực đầu tư đúng đắn.
Ngoài ra bên cạnh việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển ngành dịch vụ nói chung, chúng ta phải tiến hành quy hoạch các dự án đầu tư nước ngoài. Đây là một nội dung vô cùng quan trọng. Việc thiếu hoặc chậm đưa ra một kế hoạch về đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ chắc chắn sẽ là nguyên nhân gây bất lợi cho hoạt động quản lý và môi trường đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch. Điểm cần quan tâm trong quy hoạch đầu tư là phải tạo cho được môi trường thu hút đầu tư, đầu tư cân đối, hài hoà giữa các lĩnh vực và các vùng trong cả nước. Hơn nữa, phải phù hợp với Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước thể hiện qua việc đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngoài việc duy trì các nhà đầu tư “truyền thống” như Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, British Virgin Island, Hàn Quốc... cần tập trung nghiên cứu khả năng thu hút hơn nữa các nhà
đầu tư tiềm năng từ các nước liên minh Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản. Đây là những nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, công nghệ, có thị trường lớn.
2..2 Chính sách khuyến khích đầu tư vào dịch vụ
Sở Kế hoạch và đầu tư, ban xúc tiến đầu tư và các ngành có liên quan cần tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư nước ngoài của các nước, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách thu hút vốn FDI cho phù hợp. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu luật pháp, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư của các nước trong khu vực là cần thiết để kịp thời có những đối sách hợp lý. Hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch cần đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng, nhất quán và dự đoán trước được.
Để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, các chính sách thu hút đầu tư vào du lịch cần được hoàn thiện theo hướng:
Hoạt động xúc tiến đầu tư
Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, tiến hành xúc tiến có lộ trình thích hợp trong đó xác định rõ yêu cầu đối với đối tác dự án, sản phẩm, công suất, tiến bộ, trinh độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án và các chính sách khuyến khích, ưu đãi cần thiết. Tổ chức các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Tuyên truyền vận động về những thuận lợi, khó khăn văn hoá, lịch sử, con người Hà Nội, các chính sách ưu đãi đàu tư của thành phố cho những dự án FDI…nâng cao hình ảnh của Hà Nội trong mắt các nhà ĐTNN đồng thời giám sát công việc xúc tiến đầu tư của các quận, huyện trực thuộc để nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Fdi Vào Lĩnh Vực Dịch Vụ Của Hà Nội Phân Theo Hình Thức Đầu Tư Giai Đoạn 1988-2007
- Triển Vọng Thu Hút Fdi Vào Lĩnh Vực Dịch Vụ Của Hà Nội 1.triển Vọng Fdi Vào Việt Nam
- Định Hướng Phát Triển Ngành Dịch Vụ Của Hà Nội
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và giải pháp - 14
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và giải pháp - 15
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Nâng cấp các trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư ( tiếng Anh, Nhật, Trung,Hàn, Nga). Hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ rất hiệu quả nếu có sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo cấp cao của thành phố, lồng ghép việc xúc tiến đầu tư thông qua các chuyến thăm làm việc tại nước ngoài như Hà Nội đã đang làm được. Gửi tới Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, Việt Kiều, các tổ chức của Việt Nam trên thế giới để thu hút đầu tư. Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lơn, các địa
bàn trọng điểm như Nhật Bàn, Hàn Quốc, Mỹ… để kêu gọi các dự án đầu tư lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các dự án đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Hà Nội.
Mở rộng hình thức đầu tư : tăng cường áp dụng hình thức đầu tư mới có sử dụng vốn ĐTNN như BOT, BTO, BT…trong đầu tư xây dựng các công trinh kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ nhằm xúc tiến một số dự án đầu tư lớn, trọng điểm.
Trợ giúp về mặt tài chính cho các doanh nghiệp:Nhiệm vụ quan trọng nhất mà ngành dịch vụ Hà Nội cần ưu tiên thực hiện đó là thành lập quỹ tài chính nhằm cung cấp các khoản tín dụng với lãi suất thấp và dài hạn cho những dự án đầu tư vào các tiểu ngành ưu tiên như xây dựng khu vui chơi giải trí, nghỉ mát, vận chuyển khách... Điều này có thể thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài cho dù thời gian thu hồi vốn lâu hơn. Bằng cách làm này, sự phân bổ không đồng đều hiện tại của FDI giữa các tiểu ngành có thể được cải thiện một cách đáng kể và đó cũng là cách tốt nhất để hạn chế những tác động tiêu cực của FDI và góp phần củng cố, nâng cao tính cạnh tranh của dịch vụ Hà Nội về lâu dài
Về chính sách thuế:
Giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong du lịch. Hiện nay, mức thuế này ở mức 25% là mức thuế cao nhất, cao hơn so với khả năng thực hiện.
Giảm dần và tiến tới loại bỏ việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với loại hình kinh doanh sân golf bởi vì golf là một hình thức thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bơi lội...nên được khuyến khích phát triển chứ không nên xếp chung vào nhóm kinh doanh bị hạn chế phát triển như vàng mã, thuốc lá, rượu bia.
Về chính sách đất đai:
Từng bước thực hiện thống nhất tiền cho thuê đất đối với các doanh nghiệp. Miễn giảm tiền thuê đất đối với các dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản, dự án thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Ban hành chế độ đền bù, giải toả đất theo nguyên tắc:
Giá đất tính đền bù phải sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Điều chỉnh khung phí đền bù, điều chỉnh giá đất đai, giá thuê đất hợp lý so với
các địa phương và các thủ đô các nước trong khu vực vì giá thuê đất của Hà Nội quá cao.
Tổ chức giao đất, thuê đất có trách nhiệm chi trả tiền đền bù cho người có đất bị thu, nhưng phía Việt Nam phải chịu trách nhiệm giải toả mặt bằng và chỉ giao đất cho chủ dự án FDI khi đã giải phóng xong mặt bằng.
Cần bình đẳng trong việc áp dụng quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn Hà Nội không chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà còn được hưởng các quyền liên quan đến người có giấy chứng nhận sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đơn giản hoá các thủ tục giao đất, cho thuê đất.
Tích cực tham khảo kinh nghiệm của các nước về xây dựng chính sách đất đai cho khu vực có vốn FDI. Tham khảo các nhà ĐTNN tại Việt Nam, các thông lệ quốc tế để có chính sách ổn định nhất.
Đối với KCN-KCX, khu kinh tế đặc biệt nên có cơ chế riêng cho thuê đất theo nguyên tắc giảm tới mức tối đa giá tiền cho thuê và trong một số trường hợp đặc biệt có thể không thu tiền thuê đất.
2.3 Cải thiện cơ sở hạ tầng
Tiến hành điều chỉnh, phê duyệt và công bố quy hoach kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đáu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách thành phố, ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, hệ thống đường sắt nội đô thành phố Hà Nội…
Trước mắt giải quyết tôt việc cung cấp điện để không xảy ra tình trạng thiếu điện trong sản xuất. Tiến hành nghiên cứu, xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thuỷ triều, nhiệt năng từ mặt trời.
Tập trung thu hút vốn đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng, đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực ( văn hoá - y tế- giáo dục, bưu chính viễn thông, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO.
2.4. Về lao động
Lực lượng lao động dồi dào và chi phí thấp là những nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc thu hút FDI trong ngành dịch vụ của Hà Nội. Tuy nhiên, tỉ lệ lao động lành nghề và được đào tạo tốt trong ngành lại khá nhỏ. Hầu hết lao động người Việt Nam phải qua đào tạo lại trước khi làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài cho dù số lượng lao động khá đông. Do đó, việc đầu tư tập trung vào phát triển nguồn nhân lực có thể là một lựa chọn khôn ngoan cho ngành dịch vụ Hà Nội trong việc thu hút thêm FDI.
Trong thời gian tới để việc đào tạo cán bộ cho ngành dịch vụ ngày càng tốt hơn thành phố Hà Nội cần làm tốt những việc sau đây:
Thứ nhất, ngành dịch vụ cần xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực và có kế hoạch triển khai cụ thể chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các yêu cầu mà ngành đang đặt ra. Xác định rõ phạm vi và lĩnh vực đào tạo vì đây là yếu tố quyết định để đầu tư vào đào tạo.
Thứ hai, về cơ cấu đào tạo, cần phải chú trọng đào tạo đồng bộ từ nhân viên phục vụ đến cán bộ quản lý kinh doanh, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học công nghệ theo một tỷ lệ thích hợp, tránh tình trạng chỉ tập trung đào tạo ở bậc đại học. Ngoài cơ cấu đào tạo hiện tại, nên xây dựng một số trường cao đẳng chuyên ngành, tăng tỷ lệ giờ thực hành, bài tập tình huống, tham quan nhận thức... chiếm từ 30 đến 50% số giờ của các môn học để đào tạo một số lĩnh vực còn khá thiếu như marketing, nghiệp vụ khách sạn...
Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo và lãnh đạo ngành dịch vụ nên đánh giá đúng thực trạng đào tạo, xác định những lĩnh vực cần ưu tiên đào tạo để đầu tư tập trung và sớm hình thành nên những trung tâm đào tạo chất lượng cao. Việc
đào tạo có thể do các trường đảm nhiệm nhưng việc hoạch định kế hoạch đào tạo và kiểm tra đánh giá chất lượng phải được quản lý trong một hệ thống tiêu chuẩn thống nhất về chuyên môn chung. Chỉ những trường có đầy đủ các điều kiện mới được cấp giấy phép đào tạo.
Thứ tư, sự liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo ngày càng phải được chú trọng hơn. Phát triển mô hình đào tạo tại các doanh nghiệp theo đơn đặt hàng là rất tiết kiệm và hiệu quả, nó đáp ứng đúng nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp. Đồng thời cần chỉ đạo các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm hơn đối với công tác đào tạo, trong việc tài trợ công tác biên soạn giáo trình, cấp học bổng cho sinh viên, tiếp nhận, hướng dẫn tạo điều kiện cho sinh viên thực tập.
Nâng cao đào tạo phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức cao cấp trong các doanh nghiệp có vốn FDI. Không chỉ thông qua hệ thống các trường chuyên ngành trong nước để đào tạo hoạt động chuyên trách về FDI mà cần mạnh dạn gửi cán bộ ra nước ngoài đào tạo cũng như thuê các chuyên gia nước ngoài vào làm việc trong các khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu kém.
Phổ cập tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2 và cho phép rộng rãi hơn các trường nước ngoài có chọn lọc để mở chi nhánh đào tạo tại Hà Nội. Đồng thời có chính sách thu hút nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài về hoạt động kinh doanh.
Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục thị thực và giảm bớt phí tổn về thị thực nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập, nhà ở để thu hút các cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài đến làm việc.
Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao đọng, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Cơ quan thanh tra lao động của thành phố cần phát huy quyền hạn của mình trong khâu thanh tra, giám sát việc thực hiện các chính sách trên, xử lý kịp thời các vi phạm, ngăn chặn xung đột xảy ra. Hoàn thiện các loại thủ tục với lao động trong doanh nghiệp có vốn FDI như ký kết hợp đồng lao động, thành lập và phát huy vai trò của công đoàn, đoàn thanh niên, các tổ chức Đảng. Các quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI phải được xác định rõ trên quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, ngăn chặn các hiện tượng vi phạm trách nhiệm vật chất, tinh thần và quyền con người của người lao động.
Với chiến lược đào tạo thích hợp, chất lượng lực lượng lao động ngành du lịch sẽ được nâng cao trong một thời gian không xa.
2.5 Giải pháp hành chính
Nâng cao năng lực quản lý các cấp, ngành trong hoạt động FDI, tạo thuận lợi cho Hà Nội cơ cấu lại bộ máy theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ.
Cải thiện thủ tục cấp giấy phép đầu tư, khắc phục sự trì trệ, đẩy nhanh tiến độ, thực hiện chế độ một cửa, một mối, tại chỗ cho tất cả các cấp, ngành. Đẩm bảo thống nhất các thủ tục, quy trình tại các địa phương đồng thời phù hợp với điều kiện cụ thể.
2.6 Về công nghệ
Ban hành các cơ chế quản lý về công nghệ. Thành lập các trung tâm tư vấn và thẩm định công nghệ trước khi nhập. Xử lý nghiêm các trường hợp nhập thiết bị lạc hậu, gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đến môi trường.
Quy định cụ thể các yêu cầu về chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI, bao gồm cả yêu cầu về máy móc, thiết bị, đào tạo quản lý, vận hành kinh nghiệm thị trường và cơ chế chuyển giao công nghệ để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ hiện đại, giảm tình trạng chuyển giao công nghệ lạc hậu, giá cả cao, gây ô nhiễm môi trường.
Xây dựng các trung tâm dịch vụ tư vấn và thẩm định công nghệ để giúp các nhà đầu quản lý và các đối tác Việt Nam thực hiện việc giám định chất lượng, giá cả một cách nghiêm minh theo các quy định hợp pháp để tránh tình trạng nhập khẩu hoặc chuyển giao thiết bị lạc hậu.
Xây dựng chiến lược thu hút công nghệ lâu dài, phù hợp điều kiện cụ thể của từng giai đoạn và đặc thù thủ đô.
Trên đây chỉ là một số biện pháp quan trọng cần thực hiện để tăng cường thu hút FDI, ngoài ra còn có các nhóm giải pháp tăng sức cạnh tranh, các giải pháp về thị trường và chính sách tiêu thụ sản phẩm,hệ thống pháp luật…